Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Tư tưởng về trường học và giáo dục của Rabindranath Tagore

Tư tưởng về trường học và giáo dục của Rabindranath Tagore

Rabindranath Tagore (1861–1941), nhà thơ, nhà văn viết truyện ngắn, nhà viết kịch và tiểu thuyết, một trong những nhà văn Ấn Độ hiện đại vĩ đại nhất, người dành giải Nobel văn học năm 1913. Ông sinh ra trong một gia đình giàu có ở Bengal dưới thời thuộc Anh.Ông là bạn của những người sáng lập Ấn Độ độc lập, Nehru và Gandhi.

03:26 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Sau khi học với nhiều gia sư riêng, Tagore theo học luật tại University College, London, nhưng đã bỏ học sau một năm. Ông đã phát triển một mối quan hệ mãnh liệt với nền giáo dục phương Tây, và dồn rất nhiều tâm sức vào việc thành lập một trường học và sau đó là một trường đại học tại vùng nông thôn nghèo nàn của Bengal, vùng Shantiniketan.

Khi Maria Montessori đến thăm trường vào năm 1939, bà tuyên bố rằng, bà hoàn toàn đồng cảm với triết lý giáo dục của người sáng lập trường. Ở Ấn Độ, Rabindranath Tagore đã tạo ra một hình thức giáo dục đích thực mà ông tin rằng, nó đúng với nhu cầu của trẻ em lớn lên ở vùng nông thôn Ấn Độ hơn là cách học thông thường theo sách giáo khoa.

Tâm trí của trẻ em rất nhạy cảm với những ảnh hưởng của thế giới. Tiềm thức của trẻ hoạt động tích cực, luôn ghi nhớ bài học và rất vui khi hiểu biết. Khả năng tiếp thu nhạy bén này cho phép trẻ em làm chủ ngôn ngữ, công cụ phức tạp và khó diễn đạt nhất, với đầy đủ những ý tưởng không thể xác định và những biểu tượng trừu tượng… Do đó, việc các em tiếp cận với thế giới thực tại trở nên dễ dàng và vui vẻ.

Trong giai đoạn quan trọng này, cuộc sống của trẻ phải chịu sự điều chỉnh của các cỗ máy giáo dục, vô hồn, không màu sắc, tách biệt khỏi bối cảnh của thế giới, trong những bức tường trắng trơ ​​trọi. Chúng ta được sinh ra với món quà do Thượng đế ban tặng đó là được tận hưởng niềm vui trong thế giới, nhưng hoạt động thú vị đó lại bị bắt và bị giam cầm, bị tắt tiếng bởi một lực lượng gọi là kỷ luật, giết chết sự nhạy cảm của tâm hồn trẻ thơ vốn luôn cảnh giác, bồn chồn và háo hức tiếp nhận những kiến ​​thức đầu đời từ mẹ thiên nhiên. Chúng ta ngồi trơ như những mẫu vật đã hóa thạch của viện bảo tàng, trong khi những bài học đổ xuống đầu chúng ta từ trên cao, như những viên mưa đá dập trên những bông hoa.

Trong thời thơ ấu, chúng ta học với sự hỗ trợ của cả cơ thể và trí óc, với tất cả các giác quan hoạt động và háo hức. Khi chúng ta được gửi đến trường, cánh cửa của thông tin tự nhiên đã đóng lại đối với chúng ta; mắt chúng ta nhìn thấy những con chữ, tai chúng ta nghe những bài học trừu tượng, nhưng tâm trí chúng ta bỏ lỡ dòng ý tưởng vĩnh viễn từ thiên nhiên, bởi vì các giáo viên, trong sự khôn ngoan theo kiểu của họ, nghĩ rằng những điều này làm chúng ta phân tâm và không đạt được hiệu quả gì. Giáo viên tin vào những bài học được tạo ra từ máy móc hơn là những bài học từ cuộc sống, vì vậy sự trưởng thành của tâm trí đứa trẻ không chỉ bị tổn thương mà còn bị hư hỏng một cách cưỡng bức.

Trẻ em nên được bao quanh bởi thiên nhiên, và có giá trị giáo dục riêng. Tâm trí của trẻ nên được phép va vấp và ngạc nhiên về mọi thứ xảy ra trong cuộc sống ngày nay.

Đứa trẻ học rất dễ dàng bởi vì nó có năng khiếu bẩm sinh, nhưng người lớn bỏ qua những món quà tự nhiên và cho rằng trẻ em nên học theo cùng một quá trình. Đây là một trong những sai lầm tàn nhẫn và lãng phí nhất của con người.

Bởi vì tôi đã trải qua quá trình này khi tôi còn nhỏ. Tôi đã cố gắng thành lập một trường học mà học sinh có thể được tự do… Tôi thành lập cơ sở giáo dục của mình ở một nơi tuyệt đẹp, cách xa thị trấn, nơi bọn trẻ có quyền tự do lớn nhất có thể…

Các trường học ở nước ta, chưa hòa nhập được với xã hội, còn bị áp đặt từ bên ngoài. Các khóa học họ dạy thật buồn tẻ và khô khan, khó học và vô ích. Không có điểm chung nào giữa các bài học mà học sinh nhồi nhét từ mười giờ đến bốn giờ và quốc gia nơi chúng sinh sống… Do đó, rõ ràng là mặc dù chúng ta có thể thành công trong việc sao chép để hoàn thiện những nội dung bên ngoài của trường học kiểu châu Âu… chúng ta sẽ chỉ gánh nặng cho bản thân với những chiếc bàn và băng ghế, các quy tắc và giáo trình… Chúng ta phải loại bỏ hoàn toàn mô hình Châu Âu ra khỏi tâm trí của chúng ta, nếu chỉ vì lý do rằng lịch sử Châu Âu và xã hội Châu Âu khác với lịch sử và xã hội của chúng ta.

Ở Ấn Độ cổ đại, cuộc sống chính là trường học. Ở đó, sinh viên được nuôi dưỡng, không phải trong bầu không khí học thuật của kỷ luật và học tập, hay trong cuộc sống ẩn dật của tu viện, mà trong bầu không khí của khát vọng sống. Họ dắt gia súc ra đồng cỏ, kiếm củi, hái lượm trái cây, gieo trồng lòng nhân ái với mọi sinh vật và lớn lên trong tinh thần của họ bằng sự phát triển tâm linh của chính thầy cô của họ…

Mối quan hệ truyền thống giữa sư phụ và sư đệ không phải là phép hư cấu lãng mạn đơn thuần được chứng minh bằng di tích mà chúng ta vẫn sở hữu hệ thống giáo dục bản địa đã bảo tồn nền độc lập của nó trong nhiều thế kỷ. Nền giáo dục này sắp bị khuất phục dưới bàn tay kiểm soát quan liêu của nước ngoài. Tại những chatus-pathis này (tên tiếng Phạn của trường đại học) sinh viên sống trong nhà của thầy như những đứa trẻ trong nhà, mà không cần phải trả tiền ăn ở hay học phí. Người thầy tự tổ chức việc dạy học, sống giản dị và giúp đỡ học sinh trong giờ học. Đó là một phần cuộc sống của thầy chứ không phải nghề nghiệp của thầy.

L.K. Elmhirst là một nhà khoa học nông nghiệp người Anh, người đã trở thành bạn của Tagore và nhận trách nhiệm điều hành trường học của Tagore. Ông mô tả những gì những đứa trẻ làm trong trường:

  • Chăm sóc và làm sạch và xây dựng các khu nhà
  • Chăm sóc và sử dụng nhà tiêu hợp lý; xử lý hợp vệ sinh chất thải.
  • Nấu ăn và phục vụ thức ăn; giặt và sửa quần áo.
  • Vệ sinh cá nhân và thói quen lành mạnh.
  • Tính tự giác của cá nhân; nhóm tự quản.
  • Tuân thủ nội quy, bày tỏ lòng hiếu khách; diễn tập và kiểm soát chữa cháy.

Những điều này giúp trẻ rèn nghệ thuật tự chủ, kỹ năng tổ chức, kỹ năng điều hành kinh doanh. Trẻ tự khám phá bản thân cũng như các bổn phận, trách nhiệm và đặc quyền của bản thân và quyền công dân.

Ngay từ những năm đầu đời của trẻ, người thầy cần giới thiệu cho các em một số kỹ năng thủ công, để cầm nắm bằng bàn tay nhỏ, tạo ra giá trị kinh tế nhất định. Sản phẩm phải được sử dụng thực sự trong gia đình hoặc bán ra thị trường, và do đó giúp trẻ nhận ra khả năng tự sinh tồn thông qua kinh nghiệm rèn luyện sử dụng đôi bàn tay.

Những việc thủ công như sau có thể dạy cho trẻ trong vài tuần:

  • Làm bông bấc, băng gạc, dệt khăn và thắt lưng;
  • Làm thảm bông và dệt kim tuyến (khung dệt có thể dễ dàng do trẻ em tự làm, bằng tre.)
  • Làm dép bằng rơm. Chiếu rơm và làm nệm.
  • May vá; làm giấy; làm mực.
  • Nhuộm bằng thuốc nhuộm thực vật đơn giản; bông và in hoa bằng khối gỗ.
  • Làm gạch từ đất sét phơi nắng…

Các nghề thủ công nói trên gắn bó mật thiết với đời sống người dân thôn quê, đó là những kỹ năng luôn đi cùng với con người trong suốt cuộc đời.

Triết lý giáo dục như vậy không giới hạn trẻ trong việc trải nghiệm và thử nghiệm cuộc sống. Người dạy không còn có thể áp đặt tư duy lên các học sinh, hay đe dọa trẻ bằng sức mạnh để cấp chứng chỉ hoặc bằng cấp cho trẻ. Người dạy buộc phải chấp nhận vị trí xứng đáng của mình sau học sinh, luôn luôn theo dõi, luôn sẵn sàng đưa lời khuyên hoặc động viên, luôn sẵn sàng để trở thành người học và không cản trở việc học.

Chú thích ảnh: Tượng Tagore trong Thư viện Quốc hội Ấn Độ

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Nguồn: https://newlearningonline.com/new-learning/chapter-2/supporting-material-1/rabindranath-tagores-school-at-shantiniketan

Nguồn:

Cùng chuyên mục