Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Giới thiệu chương 2 cuốn sách India Way

Giới thiệu chương 2 cuốn sách India Way

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ trân trọng giới thiệu bản dịch chương 2 cuốn sách Cách làm của Ấn Độ: Những chiến lược trong một thế giới bất định (India Way: Strategies for an Uncertain world), của tác giả S. Jaishankar, Ngoại trưởng Ấn Độ. Cuốn sách được xuất bản năm 2020.

01:46 05-10-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Chương 2: Nghệ thuật của sự thay đổi  

Nếu bạn nghe theo những bộ óc vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, thì điều sau đây đã không xảy ra. Trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã chiến thắng mà không cần chiến đấu, trong khi Mỹ chiến đấu mà không giành chiến thắng. Điều tôi nói ở đây không chỉ là nhận xét về kết quả ở một vài đấu trường hay một vài khu vực cụ thể, mà thậm chí là trên tất cả các mặt như tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng chính trị và chất lượng cuộc sống. Kết quả là, trên con đường phát triển, nước Mỹ đã đánh mất tinh thần lạc quan vốn có. Phải có nguyên nhân và ta cứ tạm cho rằng kết quả của cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016 là nguyên nhân. Nhưng đây rõ ràng không phải là nguyên nhân duy nhất cho kết quả đó. Nhưng thông qua sự kiện bầu cử đó, sự ủng hộ của hệ thống quốc tế đã trở thành một cuộc cách mạng. Và Trung Quốc, cường quốc đang lên, nhận thấy họ đang bảo vệ nguyên trạng chí ít là các yếu tố có lợi cho họ.

Thế giới chứng kiến viễn cảnh phi thường trong đó hai quốc gia hàng đầu làm mọi điều có thể để giành chiến thắng, và theo sau là một số quốc gia khác. Tác động của hành vi của nước này đối với nước kia và đối với thế giới đã trở nên hiện hữu rõ ràng. Trong các trường hợp khác, Mỹ có thể đang thực hành nghệ thuật đàm phán. Nhưng trong bối cảnh không thuận lợi, Mỹ dường như tập trung hơn vào việc thay đổi các điều khoản cam kết. Nhu cầu của ngày hôm nay rõ ràng là loại bỏ những gì không còn hiệu quả với thời cuộc. Các giao dịch có thể đi theo thời cuộc, hoặc không. Khi ta phân tích sâu sắc tới cùng, năng lực của các cường quốc lớn nhất sẽ định hình thời đại của chúng ta. Khi “thiên nga đen” (điều bất ngờ hiếm khi xảy ra) gặp “tê giác xám” (mối nguy hiểm đã được dự báo và phòng ngừa nhưng vẫn xảy ra), bản chất của môi trường sống sẽ có sự biến đổi về căn bản.

Trong con mắt của những nhà quan sát, những phát triển này có vẻ đáng báo động. Đặc biệt là khi chúng ta tập trung vào các sự kiện không chạy theo xu hướng. Nhưng quan hệ quốc tế là thực hành cả rèn luyện tính hội tụ và quản lý sự phân rẽ. Các quy trình năng động sẽ tiếp tục diễn ra trong khi cùng tồn tại. Khi mâu thuẫn tới đỉnh điểm, các quốc gia xây dựng mối quan hệ đồng minh hoặc tạo ra xung đột. Nhưng trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, hầu hết các mối quan hệ có xu hướng ổn định không đi tới điểm mâu thuẫn cực đại. Không phải là không có sự hội tụ ngay cả giữa các cường quốc cạnh tranh gay gắt. Ví dụ như Đức và Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hoặc Mỹ và Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai. Ngược lại, mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương giữa Anh và Mỹ tỏ ra đặc biệt lâu bền. Vẫn có những mối quan hệ giữa các đối tác không đối lập nhau gay gắt như Anh-Nhật sau cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân kéo dài nửa thế kỷ. Sự hợp tác của Trung Quốc với Liên Xô/Nga trong những năm 1950 và ngày nay cũng rất đáng chú ý.

Mối quan hệ hiện đang được toàn cầu chú ý giữa Mỹ và Trung Quốc đã trải qua bốn thập kỷ, không phải là một khoảng thời gian ngắn trong thời đại chúng ta đang sống. Ai được hưởng lợi nhiều hơn trong giai đoạn này là một câu hỏi mà ngày nay chúng ta có thể nhận được một câu trả lời khác với hai thập kỷ trước. Nhưng bởi vì nó đủ lâu để được coi như có hai thế hệ tham gia vào mối quan hệ này, chúng tôi cho rằng câu trả lời khác nhau giữa các thế hệ là một điều tự nhiên. Chúng ta có thể hỏi tại sao mối quan hệ này lại căng thẳng như bây giờ, và cũng có thể hỏi tại sao sự căng thẳng lại kéo dài như vậy. Nhưng ngoài hai câu hỏi này, điều mà thế giới đang tranh cãi là sự liên quan của một hệ thống mà các cường quốc đã thiết lập ra nhưng lại có một thế lực đang lên tận dụng hệ thống một cách khôn khéo để mang lại triển vọng lợi ích cho riêng thế lực đó.

Thông thường, sự hợp tác giữa các đảng phái diễn ra khi các bên tiến lại gần nhau hơn. Hoặc khi các bên tin rằng họ đang tiến lại gần nhau. Điều đó đúng trong trường hợp Mỹ và Trung Quốc ngày nay, cũng như trường hợp Mỹ và Liên Xô năm 1948, hay Anh và Nhật Bản vào năm 1922. Sự thiếu vắng một đối thủ chung vốn thúc đẩy các bên xích lại gần nhau cũng làm cục diện thay đổi. Sự thất bại của Đức và Nhật Bản trong cuộc chiến đã loại bỏ lý do duy trì mối quan hệ đối tác Mỹ-Liên Xô. Sự phục hồi chậm của Nga sau cuộc chiến là một yếu tố dẫn đến những thay đổi trong mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Và không kém phần quan trọng, như mối quan hệ đặc biệt Anh-Mỹ gợi ý, trong khi những điểm tương đồng xã hội có thể là một lực ràng buộc, thì những điểm khác biệt có thể gây chia rẽ các đối tác. Chúng ta có thể coi các sự kiện hiện tại là kết quả của những lựa chọn, sự khác biệt hoặc thậm chí của những cái tôi cá nhân. Tất cả những điều đó có thể đúng, nhưng không phải vì thế mà công việc quan hệ quốc tế dừng lại, đó là quá trình làm việc không bao giờ ngừng.

Năm 2016 có nhiều sự kiện có bản chất đặc biệt. Quốc gia hùng mạnh nhất trong thời đại của chúng ta phải thay đổi rõ ràng về hướng đi, điều này mang ý nghĩa rất lớn. Trong khi thừa nhận những thay đổi đó, cũng cần lưu ý, rằng những phát triển này không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới. Bản thân nguyên tắc Nước Mỹ trên hết (America First) có lịch sử của nó với nhiều yếu tố gây tranh cãi được đưa ra nhằm phê phán nguyên tắc này. Việc ưu tiên các lợi ích quốc gia hy sinh các trách nhiệm quốc tế là điều kéo dài sự chia rẽ về ý thức hệ. Có thể đặt câu hỏi về chính sách đối ngoại của Bernie Sanders. Nhưng trong phiên bản ban đầu của chính sách của Sanders, nước Mỹ vẫn chưa có vị thế tầm cỡ toàn cầu và đó là sự khác biệt thực sự.

Nga cũng có cách tiếp cận như vậy ngay sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1992. Ở các mức độ khác nhau, các quốc gia lớn và nhỏ khác đều thực hiện nguyên tắc quốc gia trên hết, ngay cả khi họ không chính thức thừa nhận làm như vậy. Tất cả những điều này chỉ có thể giải thích được bằng phản ứng của giới tinh hoa chính trị trong tình trạng kinh tế khó khăn liên quan đến sự phát triển chung của thế giới. Nói một cách đơn giản, chuỗi cung ứng toàn cầu được coi là một mối đe dọa về mặt kinh tế, và nhập cư và làn sóng công dân di chuyển toàn cầu  là một trong những mối đe dọa về mặt văn hóa.

Đối với nhiều người ở châu Á, thật khó để hiểu được những bất an mà toàn cầu hóa đã tạo ra ở phương Tây. Những mối bất an dẫn đến sự kết hợp giữa cánh tả và cánh hữu trong bầu cử, tạo ra thành công của các ứng cử viên theo chủ nghĩa dân tộc. Lợi ích của nền kinh tế toàn cầu đã làm lu mờ sự phân bổ không đồng đều trong các xã hội và giữa các xã hội, nên ngày càng có nhiều sự hoang mang, tức giận, trước sự thay đổi của các sự kiện.

Khi chính phủ ngầm với đầy thuyết âm mưu kết hợp với chính phủ mồm loa mép dải ở Mỹ, chúng ta thấy có sự chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra. Hiện tượng chính trị bất ngờ mở đường cho nhiều sự kiện lạ trở thành chính thống trong ba năm qua (2017-2019). Ngay cả trước khi có đại dịch, ảnh hưởng của chuỗi cung ứng toàn cầu và sự thống trị của công nghệ đã tạo ra mâu thuẫn thương mại sâu sắc ngày càng gia tăng. Cuộc cạnh tranh càng làm rõ bản chất rằng, bản thân các nhân tố trong cạnh tranh cũng tạo ra sự gián đoạn. Các khả năng trong kết quả cạnh tranh và việc triển khai các kết quả này có thể xác định hướng đi của toàn thế giới trong tương lai. Phần chính yếu của cuộc cạnh tranh xoay quanh việc sử dụng dữ liệu lớn. Hệ quả là cần kiểm soát các công nghệ mới nổi quan trọng. Cuộc chạy đua mới sẽ là về trí tuệ nhân tạo và máy tính tiên tiến, thông tin lượng tử và cảm biến, robot hỗ trợ và kết hợp não-máy tính, vật liệu tiên tiến, siêu âm thanh và công nghệ sinh học. Ai khai thác các công nghệ đột phá tốt hơn sẽ có tầm ảnh hưởng đến thế giới nhiều hơn. Các cường quốc nhận ra điều này rõ ràng nhất. Do các tranh chấp thương mại hiện mang ý nghĩa sâu xa hơn nhiều, nên đặc biệt, Mỹ có thể sẽ dự tính một chính sách công nghiệp hoàn toàn khác để phù hợp với nhu cầu an ninh quốc gia.

Khi hình thành các cán cân quyền lực mới, sẽ xuất hiện thêm lý thuyết về việc quyền lực cũ chống lại những quyền lực đang trỗi dậy. Ví dụ cuộc chiến Sparta-Athens khi xưa, hay cuộc xung đột giữa Anh và Đức trong thời đại của chúng ta. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh của hiện tượng phức tạp hơn là một cuộc đụng độ được báo trước. Cũng có bằng chứng cho thấy thế lực mạnh nhất hỗ trợ sự trỗi dậy của những nước có khát vọng vương lên. Ví dụ, Trung Quốc là nước được hưởng lợi, đầu tiên là sự hỗ trợ của Liên Xô trong những năm 1950, và sau đó là của Mỹ trong những năm 1970. Sự thật là những sự hỗ trợ đó không hoàn toàn được lên kế hoạch và cũng không phải lúc nào cũng được dự định từ trước. Rất nhiều ví dụ tương tự đã xảy ra trong lịch sử. Các siêu cường như Mỹ, châu Âu hay Nhật Bản đều có mục tiêu chung và dẫn đến chiến tranh. Những thế lực có liên quan ở châu Âu cũng đã làm như vậy. Văn hóa, lợi ích, và hoàn cảnh cũng có vai trò nhất định. Nhưng động lực sâu xa nhất lại là những toan tính và khát vọng của mỗi quốc gia. Những toan tính và khát vọng bắt nguồn từ sự lựa chọn lãnh đạo và tâm lý xã hội; không có gì thực sự là không thể tránh khỏi. Và bởi vì toan tính và khát vọng đều xoay quanh yếu tố con người, các giá trị và niềm tin đóng vai trò quan trọng trong việc định hình các vấn đề thế giới.

Nhiều hiềm khích hôm nay nảy sinh từ sự khác biệt trong những vấn đề chính như mối quan hệ giữa nhà nước, chính trị, xã hội, kinh tế, đức tin và thị trường. Những vấn đề này được thể hiện trong nhiều sự vụ liên quan đến quyền tự do cá nhân và những thể chế để ngăn chặn quyền tự do cá nhân. Đây là vấn đề xã hội học, đặc biệt là khi nhận xét trên trở thành giả định với tỷ lệ toàn cầu. Đây là trọng tâm của tình trạng khó khăn mà thế giới phải đối mặt ngày nay. Do đó, tạo ra điểm nhận thức chung là thách thức ngoại giao khó khăn nhất. Liệu những mâu thuẫn này có thể được giải quyết hay không là điều còn tranh cãi. Nhưng kết quả chính trị ở các quốc gia lớn đã khiến câu hỏi giảm ý nghĩa. Cuộc cạnh tranh Trung-Mỹ trong tình hình mới sẽ lâu dài và khó khăn mà không có kết quả rõ ràng. Có thể dự đoán kết quả sẽ còn mập mờ và những thay đổi trong địa chính trị sẽ được hậu thuẫn bởi những bước nhảy vọt trong công nghệ. Sự trỗi dậy của cường quốc toàn cầu mới không bao giờ dễ dàng, và trật tự đang dần hình thành sẽ còn nhiều hỗn loạn cho đến khi nó định hình hoàn toàn.

Trong thế giới phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau, trật tự mới chỉ có thể diễn ra thông qua vô vàn cuộc đàm phán, điều chỉnh và giao dịch căng thẳng. Quá trình này sẽ phụ thuộc vào những gì chúng ta cho phép triển khai. Nước Mỹ lựa chọn một cách có ý thức để trở thành một nền kinh tế có chi phí cao hơn nhưng ít cởi mở với nước khác hơn, một nhà sáng tạo công nghệ có tinh thần dân tộc nhưng táo bạo trong đổi mới, và một nền quân đội tự cường nhưng mạnh mẽ hơn, điều đó có nghĩa là cuộc chơi sẽ có rất nhiều thay đổi. Sẽ luôn có những tiếng nói thúc giục chúng ta chấp nhận điều dễ hơn. Có lẽ thậm chí là đòi trở lại cách làm trong quá khứ. Cũng có một sự lựa chọn thứ ba, là lựa chọn duy trì triển vọng an ninh quốc gia hiện tại, nhưng đánh giá cao giá trị của các khối liên minh. Vì vậy, văn hóa hủy diệt cái cũ để tạo ra cái hoàn toàn mới sẽ làm thay đổi nghệ thuật thỏa thuận đến mức nào vẫn còn là điều chúng ta cần quan sát trong tương lai.

Ấn Độ có thể làm gì để đạt được các mục tiêu trong thế giới đầy xáo trộn này? Phần lớn điều đó sẽ phụ thuộc vào cách xử lý của Ấn Độ đối với hai nhân tố chính - Mỹ và Trung Quốc. Đây không phải là lần đầu tiên Ấn Độ đối mặt với tình trạng khó khăn như vậy. Ấn Độ đã trải qua chiến tranh lạnh, duy trì tính độc lập trong hoạch định chính sách trong môi trường quốc tế phức tạp. Khác xa với cách thực hành theo kiểu tuyến tính, Ấn Độ đã thực hiện nhiều điều chỉnh cần thiết trong những tình huống khó. Sau cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1962, Ấn Độ yêu cầu Mỹ yểm trợ trên không. Năm 1971, trước viễn cảnh trục Mỹ-Trung-Pakistan và cuộc khủng hoảng Bangladesh đang rình rập, Ấn Độ tham gia liên minh mang tính biểu tượng với Liên Xô. Bất cứ khi nào khủng hoảng qua đi, Ấn Độ lại quay trở về con đường trung lập. Khi Nga suy yếu và Trung Quốc trỗi dậy, một triển vọng nhị phân mới xuất hiện. Từ đó hình thành xu hướng tự nhiên là cảnh giác với phe mới nổi. Nhưng kỷ nguyên sau thỏa thuận hạt nhân Ấn-Mỹ năm 2005 cho thấy sự thận trọng quá mức khiến Ấn Độ bỏ lỡ nhiều cơ hội kiếm được vô vàn lợi ích.

Thực tế là việc quay trở lại những cách làm trong quá khứ chỉ chứng minh một điều rằng chúng ta còn nhiều hạn chế và thiếu tự tin. Giữ mãi cách làm cũ tuy ít rủi ro nhưng không thể khai thác các cơ hội mới. Ở giai đoạn phát triển này, điều quan trọng là Ấn Độ phải tận dụng tối đa việc hợp tác với những nước khác. Việc hợp tác tới mức độ nào còn tùy theo khu vực hoặc vấn đề. Với khu vực hoặc vấn đề có quá nhiều các bên cùng quan tâm, có lẽ tốt nhất là Ấn Độ cần biết hoài nghi và xác minh. Bởi vì vấn đề toàn cầu có sức lan tỏa lớn, Ấn Độ phải tạo ra các mối quan hệ mới hơn trong mọi vấn đề lớn. Việc đạt được trạng thái cân bằng tổng thể sẽ phụ thuộc vào cách Ấn Độ làm việc với từng vấn đề, từng đối tác.

Trong thế giới tư lợi lên ngôi, các quốc gia sẽ làm những gì họ phải làm và ít tính xã giao hơn. Do đó, Ấn Độ phải tự mình gắng sức chống chọi với những gì có thể xảy ra. Ấn Độ phải chuẩn bị cho việc những thế lực có tầm ảnh hưởng sẽ khai thác chênh lệch quyền lực, lợi thế kinh tế và sự phụ thuộc về mặt kết nối. Và Ấn Độ cần phản ứng theo cách tốt nhất mà đối phương có thể hiểu được. Tuy nhiên, chúng ta có thể kỳ vọng một cách hợp lý rằng, ngay cả những bên quyền lực hơn cũng sẽ có thiệt hại nếu làm trầm trọng thêm mối quan hệ. Rốt cuộc, họ cũng hoạt động trong một thế giới đa cực và nhiều lựa chọn hơn. Do đó, tương lai sẽ hướng tới việc quản lý sự khác biệt và tìm kiếm sự ổn định trong thế giới nhiều thay đổi. Làm được điều này sẽ không phải là không vấp nhiều vấn đề nhưng điều quan trọng là phát triển tiến lên và làm có chiến lược rõ ràng. Ngay cả với những quốc gia láng giềng đang có những vấn đề nghiêm trọng, vẫn nên hy vọng rằng cái giá của cuộc dàn xếp thực dụng sẽ ít hơn cái giá phải trả cho mối quan hệ bất trắc.

Đồng thời, cần chống lại sự cám dỗ của những lợi ích hão huyền do những công việc trong quá khứ từng hứa hẹn. Không một nhà hoạt động chính trị nghiêm túc nào chấp nhận tận dụng những lợi ích nói trên. Ấn Độ không thể phủ quyết bất kỳ quốc gia nào khi quốc gia đó đưa ra lựa chọn chính sách. Đặc biệt là trong thế giới nơi tất cả những nhân tố quan trọng đang cố gắng hành xử cởi mở theo lựa chọn của riêng họ. Cũng không có cơ sở nào cho thấy rằng, hình ảnh Ấn Độ khiêm nhường sẽ được tán dương bởi các chính thể thích thể hiện sức mạnh. Ngược lại, khi có nhiều lựa chọn được triển khai - và thực tế là theo thời gian - thì chủ nghĩa hiện thực chiếm ưu thế. Điều này áp dụng cho tất cả các quốc gia, vì ngay cả các đối tác vẫn sẽ luôn tuân theo các điều khoản mang lại lợi ích nhiều hơn.

Thời đại hỗn loạn mà chúng ta đang sống hiện nay khác xa với những gì chúng ta nghe được về toàn cầu hóa cách đây chỉ vài năm. Sự phân cực tràn ngập thế giới của chúng ta, cho dù trong chính trị trong nước hay trong các mối quan hệ giữa các quốc gia. Những gì Mỹ và Trung Quốc đang đối xử với nhau thể hiện sự hỗn loạn đó. Nhưng hành vi của họ gây ra cho phần còn lại của thế giới thậm chí còn có tác động lớn hơn. Nó sẽ thay đổi suy nghĩ của chúng ta và đồng thời tạo ra những thói quen và thái độ mới. Những điều đó sẽ không dễ dàng trở lại như trước, nếu có thể trở lại như trước. Một số quốc gia có thể bắt chước họ; những quốc gia khác có thể không có lựa chọn nào khác ngoài việc tán dương. Nhưng tất cả sẽ phản ứng, theo cách này hay cách khác. Khi khói tan, một tái thiết trật tự toàn cầu khác sẽ bắt đầu hình thành.

Các phương trình lợi ích mới sẽ ra đời. Mỗi nước chỉ theo đuổi lợi ích quốc gia sẽ khiến thế giới của chúng ta giống như một cái chợ, với nhiều người tham gia hơn, ít luật lệ hơn và biến động lớn hơn. Kết quả là, các mục tiêu cần đạt ngay lập tức và cách tiếp cận mang màu sắc chiến thuật hơn. Các cấu trúc cũ dần suy yếu khi các bên giảm mức độ quan tâm đến việc tìm kiếm điểm chung. New York, Geneva và Brussels (nơi đặt trụ sở UN và EU) hiện là những biểu tượng bị chống đối. Lợi thế được khẳng định khi giao dịch nhiều hơn và các nhà đàm phán trả phí để học được điều đó. Sự xói mòn lòng tin trở nên rõ rệt, đặc biệt là đối với các quốc gia thành viên của các hệ thống liên minh. Sự tin cậy giờ đây là một dấu hỏi ngày càng lớn và các bằng hữu và đồng minh không còn miễn nhiễm với áp lực. Trên thực tế, mọi quốc gia đều phải chơi công bằng khi những liên minh lớn không còn có thể bỏ qua những nước khác nhỏ hơn. Khi chủ nghĩa dân tộc ngày càng rõ nét giữa các khu vực, thì đặc điểm của các mối quan tâm khác nhau cũng vậy. Lĩnh vực chính trị phải xác định lại thế nào là đen hay trắng do các cuộc tấn công “Xanh lá lấn án xanh dương” xâm nhập lĩnh vực này.

Nhưng thực tế là có những lực lượng đã dành vị thế ổn định từ thời kỳ trước đây. Sự thận trọng của thị trường và sự không thể đoán trước của các cuộc xung đột là những yếu tố hạn chế cạnh tranh gay gắt. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cũng hạn chế mức độ chấp nhận rủi ro chính trị. Các quốc gia sẽ liên tục tranh cãi về những thay đổi đang diễn ra, tạo ra những tranh luận sôi nổi trong nước và quốc tế. Vì vậy, ngay cả khi các quốc gia hành xử thô bạo hơn cho các mục tiêu hẹp hơn, thì cũng sẽ có những quốc gia sẵn sàng tâm thế để đạt được ít hơn. Trong thế giới tự do, điều này có thể có nghĩa là hạn chế kỳ vọng đối với chủ nghĩa đa nguyên, hoặc chỉ để bảo vệ tính mở. Khi đề cập đến các mối quan hệ và kỳ vọng, cả những người tin tưởng và những người hoài nghi có thể thống nhất là kết quả họ đạt được sẽ không chắc chắn. Với tất cả những tác động và áp lực này, sự rõ ràng và khách quan là hai thuộc tính luôn bị thiếu hụt.

Xu hướng cho đến gần đây chắc chắn là theo hướng ngược lại. Thế giới không những liên kết với nhau hơn trong các hoạt động toàn cầu, mà còn tin tưởng rằng sẽ liên kết hơn trong các hoạt động toàn cầu. Tất cả chúng ta đều nói về một ngôi làng toàn cầu và nhận thấy toàn cầu hóa được thực hiện theo nhiều cách thiết thực. Công nghệ là lời hứa tuyệt vời giúp chúng ta gắn kết hơn với mỗi ngày. Giải pháp cho các thách thức lớn - cho dù là thúc đẩy thương mại, ứng phó với biến đổi khí hậu hay ngăn chặn khủng bố - cần thông qua các nỗ lực chung. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đã bắt đầu thay đổi. Không phải là “cái tôi” không tồn tại trước đây. Nhưng lợi ích quốc gia và toàn cầu thường được dung hòa thông qua một mạng lưới các thỏa thuận, cơ chế và thông lệ. Giữa các quốc gia và cộng đồng quốc tế đứng trung gian, liên minh, cấu trúc khu vực hoặc các đối tác cùng chí hướng. Nhưng theo cách thế giới phát triển từ năm 1945, chúng ta thất vọng với toàn cầu hóa và tức giận với chủ nghĩa trọng thương. Ba nguyên tắc chính mà chúng ta đã từng cho là đương nhiên - tiếp cận thị trường toàn cầu, giá trị của chuỗi cung ứng toàn cầu và sự phụ thuộc vào khả năng vận động nhân tài toàn cầu - đều đang bị thách thức. Hơn nữa, số nhân tố tham gia cuộc chơi đang nhân lên ngay cả khi các quy tắc đang suy yếu. Thứ tự cũ đang thay đổi rõ ràng nhưng thứ tự mới vẫn chưa xuất hiện.

Trong khi các phương trình giữa các quốc gia có thể bị xáo trộn, sự xáo trộn trong nội bộ trừng xã hội cũng không kém phần phức tạp. Nếu thế giới không như trước đây, thì đó là bởi vì thời hạn sử dụng của những điều bình thường cũ đã hết. Câu chuyện ở thế giới phương Tây là tình trạng bất bình đẳng thu nhập gay gắt, áp lực công việc, chất lượng cuộc sống trì trệ và đổ lỗi cho “thế lực bên ngoài”. Sự oán giận ngày càng tăng và khó lường cuối cùng đã dần đến những sự kiện thiên nga đen (ám chỉ sự kiện tưởng chừng không thể xảy ra nhưng vẫn xảy ra). Brexit là hồi chuông cảnh báo, và cuộc bầu cử của Trump là một thực tế. Cho dù đó là nhắm vào những người thợ sửa ống nước từ Ba Lan, biếm họa những người nhập cư từ Mexico hay buộc tội những người tị nạn từ châu Phi, chính trị hội tụ xung quanh các mối đe dọa văn hóa và nỗi khổ đau về kinh tế. Nó cho thấy rằng, tư duy của giới tinh hoa đã trở nên lỗi thời. Triển vọng chính sách đối ngoại cũng làm nảy sinh nhiều câu hỏi, cho dù chính sách đối ngoại đó dùng lý lẽ ủng hộ lợi ích tập thể hoặc vì lợi ích chung.

Khi chúng ta hành động theo chuẩn mực ngay từ đầu, không khó để tìm ra những cách giải thích. Bất công của toàn cầu hóa nổi lên như một cột thu lôi, đặc biệt là có thể đổi hướng của tia sét chĩa vào người khác. Các công ty công nghệ lớn đã trải qua một sự chuyển đổi nhanh chóng, từ chỗ là niềm hy vọng lớn thành mối đe dọa mới. Sự xuất hiện của các chương trình nghị sự mới rõ ràng là đã thử thách những con người cũ, những người có niềm tin sai lầm rằng, quyền lực sẽ được phân chia cho xã hội. Trên khắp thế giới, chủ nghĩa dân tộc mang màu sắc chính trị đang thách thức hiện trạng. Các nước đang phát triển, đặc biệt là châu Á, có thể tạo ra bức tranh tương phản với tốc độ tăng trưởng mạnh hơn và khát vọng cao hơn. Nhưng họ vẫn đang trong quá trình tái cân bằng và còn quá sớm để tuyên bố họ thành công. Bởi vì toàn cầu hóa mang lại lợi ích cho phần lớn châu Á, chúng ta đã sai lầm khi cho rằng, sự lạc quan của toàn cầu hóa xuất hiện trên toàn cầu. Khi sự hội tụ toàn cầu suy yếu, những người ủng hộ toàn cầu hóa ở khắp mọi nơi sẽ nhận thấy lập luận của họ bị suy yếu.

Khi các khối liên minh sa sút và Mỹ rút lui khỏi các cam kết quốc tế lớn, sự bất an có thể lan rộng hơn chúng ta nghĩ. Một khi toàn cầu hóa bị tấn công, tất cả các khía cạnh của nó đều phải chịu áp lực. Làn sóng phản đối các doanh nghiệp kinh doanh trên toàn cầu đương nhiên sẽ làm suy yếu các cơ quan quản lý của quá trình toàn cầu hóa và chỉ trích các thể chế giám sát toàn cầu hóa. Thế giới quan như vậy cũng sẽ phẫn nộ với những cam kết không phục vụ mục tiêu thiết thân của những người mang thế giới quan đó.

Không phải ngẫu nhiên mà phản đối chính trị đối với toàn cầu hóa nên tập trung vào vấn đề nhập cư và an ninh việc làm. Đây là những vấn đề gây tác động nhiều nhất đối với các cử tri phương Tây, mặc dù logic kinh tế của chúng vẫn còn là dấu hỏi. Nhưng người nước ngoài là đối tượng dễ bị đề phòng chẳng kém gì một đối thủ kinh tế. Và nếu các phương thức giao dịch của họ khiến việc đó trở nên dễ dàng hơn, thì rõ ràng là như vậy. Cách nhìn của Trump mô tả chuỗi cung ứng toàn cầu đang chiếm mất công ăn việc làm của người Mỹ, đặt ra câu hỏi về logic của hoạt động kinh doanh toàn cầu đã vận hành trong nhiều năm. Việc nâng hàng rào thuế quan như một thứ vũ khí đã làm hạn chế khả năng hàng hóa từ các quốc gia khác tiếp cận nền kinh tế Mỹ. Các chính sách tài chính và áp lực xã hội đang tìm cách đưa ngành sản xuất trở lại Mỹ. Đang có những động thái nhằm “ngăn cách” thế giới phương Tây với Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ nhạy cảm. Chúng ta sẽ quan sát xem họ có thành công hay không.

Một động lực nữa của sự biến động hiện nay là làn sóng phản đối di cư toàn cầu. Bản thân hiện tượng này là hệ quả của việc phổ biến các kỹ năng và các hoạt động kinh tế hiệu quả. Tuy nhiên, có những thời điểm, xuất hiện sự thù địch đối với các khía cạnh xã hội của nó. Xét cho cùng, đó là sự vô cảm về văn hóa đi đôi với chủ nghĩa bảo hộ kinh tế. Những áp lực này phải biết ứng phó với những cách làm cũ đã tồn tại trong thực tế từ rất lâu.

Từ tất cả những gì chúng ta đã nói và đã làm, có thể thấy năng lực công nghệ sẽ vẫn là điều kiện tiên quyết để dẫn đầu. Và đây là điều có thể làm cho vị thế của Ấn Độ trở nên rất khác biệt. Đây là nguồn lực khả thi duy nhất giúp chuẩn bị các kỹ năng trước khi người Ấn Độ tham gia vào nền kinh tế thế giới. Những nguồn lực này có thể điều chỉnh được, và có giá trị kinh tế vượt trội các khía cạnh xã hội và chính trị. Tự điều chỉnh cho phù hợp hơn với nền kinh tế tri thức toàn cầu rõ ràng là chìa khóa cho các mối quan hệ trong tương lai của Ấn Độ.

Những diễn biến này sẽ tác động rõ rệt lên trật tự toàn cầu trong thế hệ tiếp theo. Tác động sẽ tới nhiều chiều, mỗi chiều tiềm ẩn nhiều sự bất ổn. Tác động rõ ràng nhất là thế giới sẽ ngày càng trở nên đa cực vì quyền lực được phân bố rộng và tính gắn kết các liên minh bị giảm sút. Ấn Độ hoặc Brazil sẽ đòi hỏi tiếng nói có trọng lượng hơn do nền kinh tế phát triển hơn. Đức và Nhật Bản không thể không thay đổi suy nghĩ của Mỹ về Nga hay Hàn Quốc. Khi tính nhất quán bắt đầu bị nghi ngờ, nhiều quốc gia khác sẽ bắt đầu thực hiện suy nghĩ và lập kế hoạch của riêng họ.

Không thể phủ nhận rằng, cách tiếp cận dân tộc chủ nghĩa hơn trong quan hệ quốc tế sẽ làm suy yếu các quy tắc đa phương trong nhiều lĩnh vực. Điều này sẽ đặc biệt đúng đối với các lợi ích kinh tế và các mối quan tâm về chủ quyền. Phá hoại hoạt động của Tổ chức Thương mại Thế giới hoặc coi thường Luật Biển không phải là những dấu hiệu tốt. Triển vọng về đa cực nhiều hơn nhưng đa phương ít hơn cho thấy một tương lai ngày một khó khăn ngay cả trong ngắn hạn. Điều này không có nghĩa là chúng ta nản chí và từ bỏ chủ nghĩa đa phương. Ngược lại, chúng ta cần nguồn năng lượng mới dành cho việc cải cách chủ nghĩa đa phương. Trật tự cũ hiện tại, cùng với chương trình nghị sự lỗi thời của nó, phải được thúc đẩy để thay đổi.

Cũng cần hiểu rằng, vấn đề không phải là sự lựa chọn giữa hai việc, một là bảo vệ trật tự hiện có, và hai là mong đợi sự đảo lộn trật tự ấy. Chừng nào chúng ta chưa nhận ra rằng, các yếu tố chính của trật tự hiện nay không còn hiệu quả đối với nhiều bên liên quan, thì chừng đó chúng ta còn lúng túng chưa thể thay đổi. Điều này làm cho việc tuân thủ các quy tắc hiện tại, cả trên giấy tờ và trong tâm thế của mỗi người, trở thành bài toán khó. Và khi các siêu cường đưa ra các lập luận một cách có chọn lọc, phần lớn sự đồng thuận cơ bản làm nền tảng cho thực tế hiện nay sẽ bắt đầu trở nên xung đột.

Các cường quốc đang lên cũng có nguy cơ rơi trở lại cán cân quyền lực cũ do quyền lực cũ đã thiết lập nhiều nguyên tắc của cuộc chơi, thay vì tìm kiếm an ninh hoặc một sự đồng thuận rộng lớn hơn trong tập thể. Lịch sử đã chứng minh rằng, cách tiếp cận này thường tạo ra các điểm cân bằng không ổn định. Các vấn đề thế giới cũng sẽ chứng kiến ​​sự gia tăng của những kẻ thù mới. Họ sẽ xuất hiện khi các đồng minh chỉ trích lẫn nhau, hoặc các đối thủ cạnh tranh buộc phải thực hiện mục tiêu chung. Đặc tính giao lưu nhiều hơn sẽ thúc đẩy các nhóm đặc biệt của các quốc gia có cùng mối quan tâm về một vấn đề cụ thể. Điều này đòi hỏi các nhóm phải hợp tác với nhau và vươn ra ngoài khuôn khổ các cấu trúc liên minh. Các diễn biến này kết hợp lại sẽ khuyến khích cân bằng khu vực và địa phương nhiều hơn, và hoạt động của họ ít bị ảnh hưởng bởi các hoạt động mang tính toàn cầu.

Những vấn đề phát sinh trong xung đột Mỹ-Trung sẽ đưa chúng ta vào thế đối phó. Những vấn đề này có thể đã tồn tại trước đây, gần đây nhất là trong Chiến tranh Lạnh. Nhưng đó không phải với sự phụ thuộc lẫn nhau và sự xâm nhập lẫn nhau của thời đại toàn cầu hóa. Do đó, các lựa chọn khác nhau và các lựa chọn thay thế cạnh tranh trong nhiều lĩnh vực sẽ vẫn dựa trên nền tảng được chia sẻ. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan này thể hiện ngày càng rõ ràng trong một số lĩnh vực, từ công nghệ, thương mại và tài chính, đến kết nối, thể chế và các hoạt động. Bản thân những bên tham gia chính sẽ phải vất vả nỗ lực trong phân đôi của sự tồn tại song song (trực tiếp và trên mạng). Hầu hết chúng ta, những người phải quản lý cả hai sự tồn tại này, sau này có thể thấy mình thực sự được thử thách.

Ngay cả khi mối quan hệ giữa Trung Quốc và phương Tây có tính chất đối nghịch hơn, rất khó để quay trở lại một thế giới lưỡng cực mạnh mẽ như trước. Lý do chính cho điều đó là tình hình tổng quan bây giờ đã thay đổi không thể đảo ngược. Các quốc gia khác, bao gồm cả Ấn Độ, đang bước đi độc lập. Một nửa trong số hai mươi nền kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay không phải là phương Tây. Sự lan tỏa của công nghệ và sự khác biệt về nhân khẩu học cũng sẽ góp phần làm cho ảnh hưởng lan rộng hơn. Chúng ta thấy các chiều hướng đang diễn ra phản ánh tính ưu việt tương đối của các phương trình cục bộ khi cấu trúc tổng thể bớt độc đoán hơn. Thực tế là Mỹ có thể đã suy yếu, nhưng sự trỗi dậy của Trung Quốc vẫn còn lâu mới chín muồi. Và cùng với nhau, hai quy trình trên đã tạo ra những quy trình khác. Vì tranh giành với nhau, cả hai đều bị bên thứ ba trục lợi. Trên thực tế, động lực tương hỗ của các quy trình có thể thúc đẩy đa cực nhanh hơn.

Bên hưởng lợi có thể là các cường quốc bậc trung. Những nước đã có lợi thế từ trước như Nga, Pháp và Anh sẽ nhận được hợp đồng mới. Một số nước như Ấn Độ có thể mong muốn cải thiện vị trí. Những nước khác, như Đức, sẽ tăng thế lực thông qua nỗ lực tập thể. Nhưng đây cũng sẽ là cơ hội của Brazil và Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, Ả Rập Saudi, Indonesia hay Úc, để có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong khu vực địa lý của họ và thậm chí xa hơn nữa. Sự rời rạc của các nhóm liên minh sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho quá trình này. Những gì sẽ xuất hiện là một kiến ​​trúc phức tạp hơn, được đặc trưng bởi các mức độ cạnh tranh, hội tụ và phối hợp. Quá trình này giống như chơi cờ đam mở rộng, trong đó một số người vừa chơi vừa tranh cãi về các quy tắc của cuộc chơi.

Thế giới đa cực được thúc đẩy bởi sự cân bằng quyền lực không phải là không có rủi ro. Châu Âu, với những kinh nghiệm từ chiến tranh thế giới, sẽ đặc biệt khó khăn. Ngay cả các cường quốc thống trị, như Mỹ, Nga trước đây hay Trung Quốc hiện nay, chỉ ủng hộ việc cân bằng quyền lực trong các trường hợp cụ thể chứ không phải là một cách tiếp cận chung. Kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy rằng, sự cạnh tranh không được kiểm soát thường có thể đi xuống, cả ở cấp khu vực và cấp độ toàn cầu. Vì lý do đó, các quan hệ quốc tế coi an ninh tập thể như mạng lưới an toàn. Ngay cả khi điều đó không phải lúc nào cũng hiệu quả, thì sự đồng thuận lớn hơn thông qua các cuộc tham vấn rộng hơn có vai trò như bản Kế hoạch B. Những người bất an nhất trước viễn cảnh đa cực với các quy tắc yếu hơn là các quốc gia lâu nay vẫn hoạt động trong cấu trúc liên minh. Không giống như những quốc gia độc lập, thật khó để những quốc gia trong các khối liên minh chấp nhận rằng, sẽ có những sự thay thế tốt hơn là bắt buộc phải phụ thuộc lẫn nhau. Những nước khác có thể suy nghĩ về viễn cảnh này với sự lo lắng lớn hơn; nhưng một Ấn Độ có lẽ có tư tưởng cởi mở hơn.

Một thế giới theo chủ nghĩa cá nhân có nghĩa là trật tự cố định sẽ cởi mở hơn với những người mới tham gia cuộc chơi. Các vị thể mang tính tập thể lâu đời có thể trở nên ít cứng nhắc hơn. Thể thức của cuộc chơi cũng mang tính song phương hơn, và sẽ tăng cường khuynh hướng tìm ra sự phù hợp cho nhiều người tham gia. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực an ninh. Cho dù đó là thỏa thuận hạt nhân, quan hệ đối tác ở Afghanistan hay cuộc tập trận Malabar, chúng đều phản ánh sự rời bỏ tư tưởng của nhóm cũ để chuyển sang chủ nghĩa thực dụng đương đại hơn. Xu hướng này mở rộng sang các nhiều lĩnh vực khác.

Bạn bè nhưng khác biệt hoặc đối thủ cạnh tranh nhưng hợp tác là một đặc điểm đáng chú ý của kịch bản mới hình thành này. Cả hai đều thể hiện các khía cạnh khác nhau của những ràng buộc hạn chế quyền tự do lựa chọn trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc chịu trách nhiệm phần lớn đối với nhóm bạn bè nhưng khác biệt, trong khi các mối đe dọa toàn cầu đưa nhóm đối thủ nhưng hợp tác lại với nhau. Vì vậy, chúng ta đã thấy Mỹ khác với phần lớn thế giới phương Tây, đặc biệt là châu Âu, về các vấn đề như biến đổi khí hậu. Chính trị của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (NATO) và NAFTA là những ví dụ về vai trò gây chia rẽ của thương mại. Chính sách năng lượng là một lĩnh vực có tiềm năng không kém, thể hiện qua việc Mỹ chỉ trích sự phụ thuộc của châu Âu vào Nga. Nhưng hơn cả những vấn đề cụ thể ấy, những người vừa là bạn vừa là thù đã phát triển khi hệ tư duy thay đổi. Niềm tin rằng, các liên minh là gánh nặng tự bản thân nó đã là nguyên nhân cho những xích mích giữa các nước trong liên minh.

Trong phân tích cuối cùng, tác dụng của xu hướng hiện tại đối với vị thế toàn cầu của Mỹ đã được đặt ra. Tuy nhiên, động lực trong quá khứ vẫn có thể duy trì sự kết hợp giữa các quốc gia có quan điểm bất đồng về tình hình hiện tại. Bất chấp sự khác biệt về quan điểm, các đối tác truyền thống vẫn tiếp tục làm việc cùng nhau, ngay cả khi không cảm thấy vui vẻ. Tuy nhiên, xuất hiện một động lực khác do sự ép buộc của những mối quan tâm chung. Chúng ta đã chứng kiến ​​các liên minh hình thành để giải quyết những vấn đề toàn cầu như chống khủng bố, an ninh hàng hải, không phổ biến vũ khí hạt nhân, và biến đổi khí hậu. Đây là những liên minh hình thành do có vấn đề chung và một lần nữa có thể hiệu quả ngay cả khi thành viên liên minh từng là kẻ thù.

Nếu sự phân chia trong các liên minh là một sự tiến hóa, thì việc vươn ra ngoài các liên minh là một sự tiến hóa khác. Khi thế giới chuyển dịch theo hướng đa phương hơn, hợp tác để đạt được mục tiêu chung bắt đầu có vẻ hấp dẫn hơn. Các nước đã tập trung tốt hơn và hòa giải với nhau dù có những cam kết trái ngược. Việc chia sẻ trách nhiệm ngày càng trở thành điều bắt buộc, kèm theo đó là việc đánh giá cao những ảnh hưởng vượt ra ngoài các cấu trúc chính thức. Châu Á là trọng tâm đặc biệt cho các sáng kiến ​​như vậy, vì kiến ​​trúc khu vực ở vùng này kém phát triển nhất. Ấn Độ ngày nay đã nổi lên như một nhà lãnh đạo của các nhóm đa phương như vậy, do Ấn Độ có khả năng đề phòng rủi ro cũng như khả năng làm chủ những vấn đề mới nổi cùng một lúc.

Kinh nghiệm làm việc với nhiều cường quốc trong các vấn đề an ninh, chính trị và phát triển đã chỉ ra rằng, việc xây dựng mục tiêu chung có thể được thực hiện qua quan sát thực tế và dự báo. Những vấn đề còn chưa ngã ngũ đòi hỏi những thỏa thuận theo từng phần và những chương trình nghị sự hạn chế. Bản chất không rõ ràng của nó đòi hỏi sự sắp xếp linh hoạt được tùy chỉnh để phù hợp với thách thức. Những hoạt động này sẽ không chỉ trở nên phổ biến hơn trong thời gian tới mà còn chiếm một vị trí nổi bật trong chính sách đối ngoại của các quốc gia khác chứ không chỉ Ấn Độ.

Một thế giới của nhiều sự lựa chọn đang ngày càng mở ra ở nhiều cấp độ khác nhau. Chúng ta chắc chắn thấy điều đó diễn ra trên bàn đàm phán lớn, nơi các siêu cường đang đối phó với nhau theo cách cơ hội hơn. Họ khuyến khích phần còn lại của thế giới làm theo hành vi của họ. Trong bối cảnh cân bằng toàn cầu chưa định hình, việc định hình cân bằng trong từng khu vực trở thành chủ đề đáng lưu tâm. Ở Vùng Vịnh có cuộc cạnh tranh nhiều chiều cạnh đang diễn ra với nhiều biến số về niềm tin, mô hình quản trị, các nguyên tắc chính trị và cán cân quyền lực. Các ví dụ khác cũng có thể quan sát thấy ở nhiều nơi khác trên thế giới.

Khi các vấn đề được đưa ra, Ấn Độ sẽ phản hồi bằng sự tham gia hiệu quả, chứ không né tránh. Kỹ năng mà nền ngoại giao hiện nay coi trọng nhất là có khả năng làm việc đồng thời với các bên tranh chấp và đạt kết quả tối ưu. Áp lực lên người tham gia cuộc chơi chắc chắn là nhiều hơn trong một trận đấu cường độ cao hơn và ít khuôn mẫu hơn. Nhưng có lý do để giải thích vì sao việc đi lên hệ thống phân cấp quyền lực toàn cầu được đánh giá bởi khả năng quản lý thành công các mối ưu tiên có xung đột.

Việc thống trị sân khấu toàn cầu ngày nay rất khác so với thời trước đây. Khi thế giới đơn giản hơn nhiều, thì sự trỗi dậy của các cường quốc cũng vậy. Có tạo ra được vận may hay không là nhờ sự kết hợp của sức mạnh quốc gia, cơ hội quốc tế và phẩm chất của lãnh đạo. Các công nghệ và cách làm tốt vượt trội đã tạo ra những kết quả quyết định, thường là trên chiến trường. Ngày nay, có thêm vô vàn các biến số điều khiển hiệu suất và ảnh hưởng đến khả năng thành công. Tác động qua lại của chúng cũng phức tạp và ít có khả năng dự đoán được. Quan trọng không kém, ứng dụng của các biến số diễn ra trong thế giới bị ràng buộc, toàn cầu hóa và phụ thuộc lẫn nhau. Kết quả là, tổng hợp của những ảnh hưởng có khả năng thay thế cho sự phô diễn sức mạnh. Chiến lược sử dụng vũ lực không còn hiệu quả bằng chiến lược sử dụng tốt các nguồn lực. Công nghệ đã mở ra các lựa chọn mới như vũ khí hóa tài chính hoặc can thiệp mạng.

Đồng thời, thuyết phục và khuyến khích cũng phổ biến hơn ép buộc. Do đó, các quốc gia hiện đang trỗi dậy theo một cách khác, mà không nhất thiết phải có thời điểm quan trọng làm mốc đánh dấu sự chuyển đổi. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009 là một ví dụ điển hình khi cả Trung Quốc, cường quốc đang lên, hay Mỹ, quốc gia có lợi thế, đều được thay đổi nhiều vào thời điểm đó.

Sự gia tăng ảnh hưởng của các quốc gia có thể lan tỏa hơn và có lẽ ít hữu hình hơn. Nhưng tuy nhiên, nó cũng không kém phần thực tế. Không ai nghi ngờ ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường thế giới, ngay cả khi chúng ta không nghĩ rằng, ảnh hưởng đó đạt được bằng cách vận hành thặng dư thương mại và không có đổ máu. Các công cụ tài chính, sự phô trương sức mạnh và các dự án kết nối đã mang đến cơ hội khẳng định quyền lực mà không phải đụng độ cơ học với đối thủ.

Điều đó nói lên rằng, mối đe dọa tiềm ẩn về khả năng ngày càng tăng tiếp tục củng cố quyền lực cứng. Nó giải thích tại sao một số nước thêu dệt những xung đột trong quá khứ của họ quá nhiều. Trong trường hợp của Ấn Độ cũng vậy, việc duy trì một thế trận quân sự vững chắc hơn và thực hiện các vụ thử hạt nhân năm 1998 là những dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Ấn Độ. Nhưng hình ảnh toàn cầu Ấn Độ cũng là kết quả của phản ứng trước thách thức Y2K, tốc độ tăng trưởng cao hơn và hoạt động mua bán sáp nhập của doanh nghiệp toàn cầu. Bản thân quyền lực giờ đây đã có những thuộc tính khác nhau và không phải tất cả chúng đều cư trú trong cùng một quốc gia.

Chẳng hạn, Mỹ vẫn là nước dẫn đầu về công nghệ của thế giới trong thời gian dài. Mặc dù đứng sau Mỹ trong chỉ số này, Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh tài chính và thương mại để đạt vị trí số hai. Châu Âu được đánh giá cao về sức mạnh công nghiệp và chất lượng sản phẩm. Mặc dù châu Âu theo đuổi các chính sách can thiệp vào nước ngoài, cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ vẫn là cú đấm dưới sức nặng của lục địa này. Ngược lại, Nga đã phát huy những năng lực truyền thống và bằng sức mạnh ý chí tuyệt đối đã xây dựng lại hình ảnh, đóng vai trò là nhân tố chủ chốt. Vì vậy, hệ thống phân cấp quyền lực toàn cầu là gì không còn là một câu hỏi dễ trả lời. Bởi vì nó có rất nhiều khía cạnh và được thực hiện ở cấp địa phương nhiều hơn, chúng ta quay trở lại ma trận của nhiều bên, nhiều người chơi, nhiều cuộc chơi.

Lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi những gián đoạn này là chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu. Chủ nghĩa dân tộc Mỹ và chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc đã tạo ra những yếu tố mới cho cuộc tranh luận về chủ đề này. Phạm vi các hoạt động của châu Âu cũng bị thu hẹp. Rất ít cường quốc khác đứng ra giải quyết vấn đề, nhưng Ấn Độ là một trong những ngoại lệ. Việc không sẵn sàng dành nguồn lực cho mục tiêu lớn toàn cầu là biểu hiện đặc trưng của phương pháp tổ chức quan hệ quốc tế theo hướng thu hẹp hơn. Ví dụ như tranh luận xung quanh việc có nên tiếp tục các cam kết quân sự với Afghanistan và Trung Đông, hay phản ứng với đại dịch Covid-19. Nhưng biểu hiện của nó phức tạp hơn thế nhiều, bao gồm cả việc tôn trọng luật pháp quốc tế, phản đối những hành vi sai trái nghiêm trọng. Chẳng hạn, việc thế giới thờ ơ với các hành động khủng bố nghiêm trọng đã tạo nền móng cho khủng bố phát triển trong một vùng địa lý rộng lớn. Tất nhiên, Ấn Độ có rất nhiều điều để than phiền trong vấn đề này.

Trước đây, việc giữ gìn trật tự toàn cầu được cho là nhờ vào hàng loạt các biện pháp phòng ngừa. Các chuyên gia không phổ biến vũ khí hạt nhân xác nhận rằng, nhiều quốc gia nữa sẽ phi hạt nhân hóa nhưng vì áp lực của các nước cùng trong các khối liên minh. Phần lớn phụ thuộc vào việc các cường quốc chủ chốt có bảo đảm các cam kết hay không. Nếu quá trình đó bị xói mòn, nó có thể ảnh hưởng sâu sắc đến tính toán của nhiều quốc gia. Cũng sẽ khó khăn mới đạt được sự hiểu biết đầy đủ về các khía cạnh mới của mối nguy hiểm, chẳng hạn như trong lĩnh vực an ninh mạng hoặc trong không gian. Thật không may, thập kỷ tiếp theo sẽ khắc nghiệt hơn và kém an toàn hơn.

Ý thức được điều đó, Ấn Độ phải cẩn trọng trong việc xác định những giới hạn trong tương lai gần. Các quốc gia hàng đầu, không chỉ Mỹ và Trung Quốc, chắc chắn sẽ có tinh thần dân tộc hơn, và tạo ra không gian cho những nước khác. Quyền lực sẽ phân chia rộng, nhanh chóng tạo ra thế giới đa cực. Nhưng không có nghĩa là những nước lớn sẽ tuân thủ các quy tắc tốt hơn; có lẽ hoàn toàn ngược lại. Khi năng lực tăng thêm và nhiều lĩnh vực mới xuất hiện, các quy tắc toàn cầu sẽ phải khó khăn điều chỉnh để theo kịp tốc độ. Những phát triển này sẽ đặt ra thách thức đối với cường quốc đang lên như Ấn Độ, và chắc chắn sẽ cần năng lực dự đoán cao hơn. Nhưng nếu Ấn Độ làm chủ những vấn đề còn đang mơ hồ và chưa chắc chắn, năng lực phát triển của Ấn Độ nhờ đó sẽ lên tầm cao hơn.

Sự cân bằng quyền lực sẽ thường xuyên được thực hiện ở nhiều cấp độ chính trị toàn cầu. Các thỏa thuận hợp tác không quá chặt chẽ, và rất thực tế sẽ phát triển trên khắp các vùng địa lý. Một số thỏa thuận sẽ là giữa những quốc gia cùng chí hướng, nhưng một số thỏa thuận khác sẽ tùy vào cơ hội hợp tác, hoặc là loại thỏa thuận kết hợp cả hai dạng trên. Chính trị khu vực và các mối quan hệ đối trọng cấp địa phương sẽ trở nên quan trọng.

Rõ ràng, Ấn Độ sẽ phải thu hút nhiều đối tác theo cách sáng tạo hơn. Các giao dịch sẽ mang đến cả bàn lẫn thù, với sức ép của toàn cầu hóa. Nhiều bên sẽ sử dụng các kỹ thuật mới hơn về tài chính, kết nối hoặc công nghệ. Ấn Độ sẽ cần tìm ra các phản ứng thích hợp trên phạm vi quốc gia nếu có thể hoặc trong quan hệ đối tác, nếu cần. Bản thân mỗi vấn đề này đều là một thách thức và ma trận các vấn đề sẽ quyết định tương lai của Ấn Độ trong một thế giới đầy biến động.

Ấn Độ có thể tăng trưởng nhanh, điều mà cho đến nay vẫn chưa làm được, và hy vọng sẽ đóng vai trò cân bằng quyền lực khi các phương trình mới ra đời. Hoặc, Ấn Độ có thể táo bạo hơn và tìm cách xác định các chương trình nghị sự và mục tiêu. Ở một mức độ nào đó, việc Ấn Độ còn trì hoãn chưa bứt phá là do những tàn dư từ sự hồi tưởng về các cường quốc đáng gờm như Mỹ và Liên Xô cũ. Nhưng Trung Quốc đã cho thấy rằng, một xã hội đang phát triển, mặc dù có quy mô lớn và nền kinh tế năng động, vẫn có thể bắt đầu đảm nhận trọng trách quốc tế. Ấn Độ cũng có thể đi theo con đường riêng và với tốc độ phù hợp nhất với Ấn Độ. Đó là tính toán dựa trên thực tế hoặc thậm chí là những hy vọng mà nhiều cơ quan mong muốn đạt được.

Một thế giới phẳng hơn đã có lợi cho Ấn Độ khi sự trỗi dậy của nước này được nhiều cường quốc truyền thống hoan nghênh. Mối quan tâm của Mỹ trong việc hợp tác với Ấn Độ đã thể hiện rõ ràng trong hai thập kỷ và hiện đang tăng tốc hơn nữa. Nga vẫn là một đối tác đặc quyền mà sự hội tụ địa chính trị là một yếu tố quan trọng được xem xét ngay cả trong những hoàn cảnh thay đổi. Điều đó đã mang lại cho mối quan hệ một dấu ấn đầy tiếng vang. Sau Brexit, một châu Âu không chắc chắn hơn cũng đã phát triển mối quan tâm ngày càng tăng đối với Ấn Độ như một lực lượng ổn định và tăng trưởng ở châu Á. Trung Quốc coi Ấn Độ là quốc gia hưởng lợi từ sự trỗi dậy của châu Á và sự tái cân bằng lớn hơn trong việc phân chia quyền lực. Việc Nhật Bản mở rộng các mối quan ngại và mối quan tâm đã tạo cơ sở cho việc thay đổi chất lượng mối quan hệ hợp tác. Các quốc gia châu Á, đặc biệt là trong ASEAN và Thái Bình Dương, hình dung ra giá trị của Ấn Độ trong khả năng hình thành một châu Á đa cực hơn. Các khu vực láng giềng với Ấn Độ tại vùng Vịnh cũng đã chào đón sự trở lại của Ấn Độ trong khu vực này. Trong khi thực hiện tất cả những điều này, Ấn Độ vẫn giữ được các khu vực có truyền thống ủng hộ Ấn Độ ở châu Phi, và các tổ chức chính trị nam bán cầu. Khi sự khác biệt về quyền lực so với thế giới thu hẹp, các khả năng hợp tác đã mở rộng. Nếu thế giới đã sẵn sàng hợp tác nhiều hơn với Ấn Độ, thì đến lượt Ấn Độ cần biết tận dụng tối đa tình cảm của thế giới.

Cải thiện triển vọng kinh tế và chính trị là điều kiện đủ để Ấn Độ trỗi dậy trong trật tự thế giới. Nhưng điều kiện đủ đòi hỏi có môi trường thuận lợi cũng như khả năng lãnh đạo và khả năng phán đoán để tận dụng lợi thế của tình hình mới. Và chính những thay đổi liên quan đến hai yếu tố cần và đủ này đã trở thành một ví dụ tốt để đánh giá nguyện vọng phát triển của Ấn Độ một cách nghiêm túc hơn. Các tính toán chiến lược đúng đắn đòi hỏi sự hiểu biết đúng đắn về sự chuyển đổi trong bối cảnh quốc tế. Đánh giá chính xác những mâu thuẫn của nó ở cấp độ toàn cầu và khu vực sẽ mở ra cơ hội tiến bộ. Trọng tâm lúc này là sự biến động trong mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Nhưng cũng cần theo dõi quyết tâm của Nga, sự lựa chọn của Nhật Bản và sức bền của châu Âu. Liên minh lỏng lẻo của các quốc gia đang phát triển sẽ đóng góp một phần nào đó, mặc dù nó ngày càng phân hóa trong các vấn đề đáng quan tâm. Và khi đa cực phát triển và kỷ luật liên minh bị xói mòn, chủ nghĩa khu vực thực sự sắc nét hơn có thể tạo ra những kết quả nằm ngoài tầm kiểm soát của các cường quốc. Chủ nghĩa đa phương có thể sẽ lùi bước khi các quy tắc và chuẩn mực được giám sát chặt chẽ hơn và sự đồng thuận giữa năm quốc gia thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh và Pháp) suy yếu. Nói chung, điều này cho thấy tính linh hoạt và khó đoán định hơn.

Về lý thuyết, thực tế mới này nên được các đối tượng hưởng lợi hoan nghênh. Rốt cuộc, nhu cầu về một thế giới đa cực hơn đã hình thành trong nhiều năm. Giờ đây, tính đa cực của thế giới phụ thuộc vào chính chúng ta, và chúng ta sẽ nhanh chóng cảm nhận được những ràng buộc và trách nhiệm của thế giới đa cực. Các quốc gia sẽ phải xây dựng các mối quan hệ dựa trên vấn đề, nhưng việc này có thể đẩy các quốc gia đi theo các hướng khác nhau. Tung được nhiều quả bóng không rơi xuống đất và thực hiện nhiều cam kết với nhiều đối tác là một kỹ năng tuyệt vời. Sẽ có sự hội nhập với nhiều đối tác nhưng không có nghĩa là hòa tan. Tìm ra những điểm chung để gắn kết với nhiều trung tâm quyền lực sẽ là đặc trưng của ngoại giao. Quốc gia được đánh giá tốt nhất là quốc gia có ít vấn đề nhất với nhóm đồng cấp của mình.

Ấn Độ phải tiếp cận theo nhiều hướng nhất có thể và tối đa hóa lợi ích. Đây không chỉ là về tham vọng lớn hơn; mà còn là về việc không sống trong ngày hôm qua. Trong thế giới mà tất cả các bên đều cạnh tranh với nhau, mục tiêu của Ấn Độ phải là tiến gần hơn tới điểm an tâm về chiến lược.

Sự thay đổi của nền chính trị toàn cầu luôn là bối cảnh quyết định cho các lựa chọn quốc gia. Thời kỳ hậu thuộc địa sau chiến tranh thế giới thứ hai chứng kiến ​​sự quay trở lại trường quốc tế của Ấn Độ với tư cách là một cường quốc có chủ quyền. Giành được độc lập trước nhiều nước thuộc địa khác, Ấn Độ được hưởng lợi thế đi đầu trong các vấn đề thế giới trong một thời gian dài đáng kể. Sự thay đổi tiếp theo diễn ra khi Ấn Độ phải đáp trả mối quan hệ hợp tác Trung-Mỹ, một mối quan hệ do được hình thành xung quanh vấn đề Pakistan. Ấn Độ đã liên kết ở một mức độ lớn với Liên Xô cũ. Mặc dù điều đó cũng diễn ra trong vài thập kỷ tiếp theo, nhưng sức ép kinh tế và sự khởi đầu của tính đơn cực đã buộc Ấn Độ phải điều chỉnh thêm. Thỏa thuận hạt nhân Ấn-Mỹ năm 2005 là biểu tượng của sự tái định vị này, giúp đẩy nhanh sự trỗi dậy của Ấn Độ trong trật tự toàn cầu. Ngày nay, đất nước này đang đứng trước một ngã rẽ khác, lần này có những lựa chọn không rõ ràng hơn và rủi ro phức tạp hơn. Để vượt lên phía trước, điều bắt buộc là Ấn Độ phải đánh giá đúng về mức độ phạm vi của sự gián đoạn mà hệ thống quốc tế hiện đang phải gánh chịu.

Ấn Độ phải cân nhắc về triển vọng của mình trong dòng chảy tổng thể của lịch sử hiện đại. Đặt triển vọng quốc gia trong bối cảnh các sự kiện toàn cầu là điều không dễ dàng với các xã hội tự thu mình. Tuy nhiên, khi tách mình khỏi bối cảnh thế giới rộng lớn, các xã hội khép kín có thể hiểu sai vị trí của mình hoặc bỏ qua những cơ hội đổi thay số phận. Quá trình hiện đại hóa hiện nay của Ấn Độ là một trong những chuỗi hoạt động quay trở lại thời kỳ Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản. Ngay cả khi đó, những người theo chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ vẫn coi đó là sự khởi đầu của sự hồi sinh của châu Á, ca ngợi chiến thắng của Nhật Bản trước Nga vào năm 1905. Nhưng chính sự chuyển đổi kinh tế xã hội của đất nước mới là câu chuyện thực sự lâu dài. Sự ra đời của Liên Xô, sự xuất hiện của các con hổ kinh tế  ở Đông Á và ASEAN, và cuối cùng là sự trỗi dậy của Trung Quốc - tất cả đều khiến phần còn lại của Âu-Á phải nỗ lực để bắt kịp. Mỗi một trong những sự phát triển này đều có ảnh hưởng đến Ấn Độ, đôi khi là ảnh hưởng một cách vô thức. Phải thừa nhận rằng, Ấn Độ là nước duy nhất thực hiện cuộc hành trình này một cách gian khổ hơn trên phương tiện dân chủ. Tuy có những vấn đề chính trị và xã hội, những nỗ lực của Ấn Độ trong một phần tư thế kỷ qua phản ánh sự thống nhất với những mục đích và mục tiêu lớn của châu Á. Kết quả phụ thuộc ở chiều sâu và cường độ của sự thay đổi, nơi mà cách tiếp cận tiến bộ tạo ra kết quả ít mang tính hủy diệt và đột ngột hơn. Theo đó, sự thay đổi sẽ gây ra ít vấn đề phải giải quyết hơn.

Chính sách đối ngoại hiện là phép thử nhằm đánh giá những gián đoạn đang diễn ra và các xu hướng đẩy nhanh, giảm thiểu hoặc chống lại các hướng đi mới. Đại dịch Covid-19 cũng có thể là một yếu tố gia tăng tính phức tạp. Nhưng khi kiến ​​trúc toàn cầu mở ra và năng lực của chính Ấn Độ được tăng cường, nước này có nhiều quyền tự do hơn so với trước đây để tạo tiền đề cho sự trỗi dậy của đất nước. Quá trình này đương nhiên sẽ có những rủi ro cần được đánh giá cẩn thận. Phần lớn chiến lược sẽ xoay quanh việc tạo ra bối cảnh thuận lợi hơn. Thay đổi diễn ngôn toàn cầu theo hướng có lợi cho Ấn Độ cũng là điều cần thiết vào lúc này. Nhưng mục tiêu cuối cùng thậm chí, có lẽ là đặc biệt, trong một thế giới đầy biến động là rõ ràng. Nhiều bạn, ít thù, thiện chí lớn, nhiều ảnh hưởng. Điều đó phải đạt được thông qua cách làm của Ấn Độ.

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Bấm vào đây để đọc Chương 1 của cuốn sách này

Bấm vào đây để đọc Chương 3 của cuốn sách này

 

Nguồn:

Cùng chuyên mục