Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Phật giáo Ấn Độ du nhập và thăng hoa ở Việt Nam (Phần 1)

Phật giáo Ấn Độ du nhập và thăng hoa ở Việt Nam (Phần 1)

Phật giáo là một trong những tinh hoa văn hóa tinh thần của Ấn Độ, có nguồn gốc dài lâu, nội dung rộng lớn, giáo lý sâu sắc, với tinh thần từ bi hỉ xả, đáp ứng được việc giải tỏa những khổ đau của nhân sinh nơi trần thế, cho nên Phật giáo đã quy tụ được hàng triệu tín đồ và có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở Ấn Độ mà còn lan tỏa ra khắp thế giới trong đó có Việt Nam.

02:22 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Phật giáo Ấn Độ du nhập và thăng hoa ở Việt Nam                                

                                                 PGS. TS. Trần Lê Bảo*

Phật giáo là một trong những tinh hoa văn hóa tinh thần của Ấn Độ, có nguồn gốc dài lâu, nội dung rộng lớn, giáo lý sâu sắc, với tinh thần từ bi hỉ xả, đáp ứng được việc giải tỏa những khổ đau của nhân sinh nơi trần thế, cho nên Phật giáo đã quy tụ được hàng triệu tín đồ và có ảnh hưởng sâu rộng  không chỉ ở Ấn Độ mà còn lan tỏa ra khắp thế giới trong đó có Việt Nam.

Việt Nam là nước nằm trong khu vực giao lưu giữa văn hóa Ấn Độ và văn hóa Trung Quốc (Indochine) cho nên sớm tiếp nhận được Phật giáo. Trong tiến trình lịch sử, Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cả nước có đến 75% người dân chịu sự giáo dục hoặc ảnh hưởng của Phật giáo, 60% người dân theo đạo Phật. Cả nước Việt Nam có khoảng hơn 32.000 người xuất gia tăng ni, có hơn 14.000 ngôi chùa miếu.

Tuy nhiên, Phật giáo sau khi du nhập vào Việt Nam đã được bản địa hóa, hoằng dương, thăng hoa góp phần gắn kết giữa chính trị và tôn giáo, đồng hành cùng dân tộc trong việc giữ gìn bảo vệ tổ quốc, chăm lo đời sống thái bình cho dân chúng và góp phần hưng thịnh đất nước. Thông qua ba vị Vua – Phật tiêu biểu ba triều đại khác nhau là Thái tổ Lý Công Uẩn – sư thành Vua, Phật hoàng Trần Nhân Tông – Vua thành sư và Bồ Tát Minh vương Nguyễn Phúc Chu – Vua và sư, chúng tôi muốn làm rõ vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam và đặc biệt là mối quan hệ gắn bó hài hòa của Phật giáo đối với chính trị và chính trị đã làm Phật giáo Ấn Độ thăng hoa.

1. Phật giáo truyền thừa vào Việt Nam

Phật giáo là một loại văn hóa tín ngưỡng Ấn Độ, là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới (cùng với Cơ đốc giáo, Islam giáo) do Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha), sau được tôn là Đức Thích Ca Mâu Ni, sáng lập. Ngài sinh năm 624 trước CN, thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con Vua Tịnh Phạn Vương Đầu Đà (Sudodana) trị vì nước Ka tì la vệ (Kapilavastu) thuộc Trung Ấn cổ và Hoàng hậu Mada (Maya). “Thích Ca Mâu Ni” là lời chú của Ấn Độ được giải thích là: “Thích Ca” ý tứ là nhân từ, “Mâu Ni” ý tứ là thanh tĩnh. Phật là giác ngộ, cảnh giới tinh thần mà Phật gia hướng tới là “nhân ái, rộng lớn, không tĩnh, đốn ngộ”.

Phật giáo Việt Nam là một trong những Phật giáo Bắc truyền. Khoảng thế kỷ II bắt đầu truyền từ Trung Quốc vào Việt Nam.

Thời kỳ sơ truyền: Theo “Thiền uyển tập anh” do Việt Nam ghi chép, năm 195, Thương Ngô Đông Hán (nay Ngô Châu Quảng Tây, chỉ Bắc bộ Việt Nam ngày nay). Ông ta “chí sắc nhọn nhờ Phật Đạo”, viết rằng, “Mâu Tử lý hoặc luận”. Đây là lúc bắt đầu Phật giáo truyền vào bắc bộ Việt Nam. Trong khoảng năm 255-256, tăng lữ Nguyệt thị Chi Cương Lương Tiếp (Cương Lương Lâu Chí) đi tới Giao Châu. Cuối thế kỷ III, tăng nhân Ấn Độ Ma La cao tuổi vượt qua Phù Nam đến Giao Châu, cùng đến có tăng nhân Khâu Đà La; xây dựng bốn ngôi chùa thờ Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện ở Bắc Ninh Giao Châu.

Khoảng thế kỷ II-III, Phật giáo đã từ nhiều con đường truyền vào Việt Nam. Đầu tiên, do Trung Nguyên Trung Quốc chiến loạn, nhiều sĩ dân Trung Hoa tìm đến sống ở Giao Châu, mang theo cả Phật giáo; sau đó là những di dân cùng tăng nhân Nam Á, Tây Á theo đường biển đi vào Giao Châu; thứ ba cũng có thể từ Miến Điện, Vân Nam theo sông Hồng tiến vào vùng lúa. Sử ghi Thái thú Sĩ Giải ở Giao Châu thuộc Đông Ngô thời Tam Quốc, “ra vào tiếng như chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo trống chiêng, ngựa xe đầy đường, thường có mười người đốt hương thơm”. Những người Hồ đốt hương thơm vốn là đến từ Nam Á hay Tây Á hoặc tăng nhân Tây Vực.

Quá trình phát triển: Sau thế kỷ VI, tăng đoàn Việt Nam dần hình thành. Năm 574 Tăng nhân Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Trường An, 580 đến Giao Châu hoằng truyền Thiền tông và là thủy tổ Phật giáo Thiền tông Việt Nam. Thế kỷ VII-IX, Phật giáo Việt Nam ngày càng được truyền bá rộng rãi, chùa miếu được dựng nhiều nơi. Đầu thế kỷ IX, Vô Ngôn thông ở Giao Châu, sáng lập Thiền phái mới, có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển Phật giáo ở Việt Nam. Nghĩa Tĩnh trong “Đại Đường Tây Vực cầu pháp cao tăng truyện” có ghi tăng nhân Trung Quốc đời Đường đã đến Giao Châu hoằng truyền Phật giáo, có nhiều người cùng tăng nhân Việt Nam đến Ấn Độ, hay Nam Hải cầu pháp thủ kinh, ghi chép sự tích sáu vị tăng lữ Việt Nam cầu pháp thủ kinh gồm: Vận Kỳ, Giải Thoát Thiên, Khuy Xung, Tuệ Viêm, Trí Hành, Đại Thừa Đăng.

Thế kỷ X-XIV, Phật giáo Việt Nam hưng thịnh. Phật giáo trở thành trụ cột tinh thần quan trọng được chế độ phong kiến duy trì ủng hộ. Từ năm 939, Ngô Quyền xưng vương, qua triều Đinh (968-979) và triều Tiền Lê (980-1009), chính quyền quốc gia phong kiến chủ yếu nắm trong tay tăng lữ và võ tướng. Nhà vua trọng dụng tăng nhân, ban cho đặc quyền; tăng nhân tham dự triều chính, chế định pháp lệnh văn thư. Năm cuối Tiền Lê, Vua Lê Long Đĩnh ở ngôi, vì tăng lữ quyền hành quá nặng, nên tìm cách tước bớt. Tập đoàn tăng lữ do hòa thượng Vạn Hạnh đứng đầu tăng thống giúp đỡ Lý Công Uẩn đang là điện tiền chỉ huy, nhân cơ hội nhà vua tạ thế, đoạt chính quyền. Lý Công Uẩn là cháu Vạn Hạnh, sau khi xây dựng triều Lý (1010-1224), tôn Vạn Hạnh làm quốc sư, coi Phật giáo là quốc giáo. Các vua triều Lý đều suy tôn Phật giáo, truyền bá Phật học Thiền tông, các nơi xây chùa miếu, giúp dân làm tăng, hơn nửa dân chúng theo tăng, trong nước chỗ nào cũng mang diện mạo chùa chiền. Triều Trần sau khi xây dựng (1225-1399), kế tục suy tôn Phật giáo, hoằng dương Thiền tông.

Trong 400 năm triều Lý và triều Trần trước sau có 8 nhà vua xuất gia làm tăng. Chỉ riêng triều Tiền Trần, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông trước sau xuất gia tu Thiền, sáng lập Trúc Lâm Thiền phái, và phái sứ thần đến Trung Quốc cầu Đại Tạng kinh, ở trong nước cho in ấn kinh điển Phật giáo và đúc tượng Phật. Chế độ tăng đoàn chính thức hình thành, tổ chức chặt chẽ. Trên có quốc sư, tăng thống và tăng lục, các phủ đều có công việc giáo môn. Chùa chiền dựng lên, kiến trúc khang trang, đường hoàng.

Phật Nho tiêu trưởng: sau thế kỷ XIV, do sự phát triển của Nho học, thế lực của giai tầng Nho sĩ ngày càng phát triển, tập đoàn tăng lữ bắt đầu mất đi tác dụng to lớn trong đời sống chính trị quốc gia. Cuối triều Trần, triều đình hạn chế sự phát triển của thế lực tăng lữ trong chùa chiền. Khi Hậu Lê (1423-1526) kiến lập, Nhà nước phong kiến độc tôn Nho học, thực hiện chính sách ức Phật trọng Nho, Nho học ngày một hưng khởi, Phật giáo vì vậy ngày càng suy vi. Triều đình cấm xây chùa miếu mới, ruộng chùa, lãnh địa của chùa đều thu về của Nhà nước, những tăng ni không biết tụng kinh, không trì giới luật phải hoàn tục, cùng với việc cải cách dân tục, tuyên truyền trong dân chúng Phật giáo là mê tín dị đoan. Đến nửa sau thế kỷ XV, số tăng lữ giảm mạnh, những người thông hiểu giáo nghĩa Phật có thể nói là đếm trên đầu ngón tay. Từ năm 1500, triều đình nhà Lê hạ lệnh chỉ cho thứ dân mới được thờ phụng Phật giáo. Vì vậy, Phật giáo Việt Nam vốn là tôn giáo quý tộc được hoàng cung ủng hộ, chuyển hóa thành tôn giáo dân gian lấy tín ngưỡng bình dân làm chủ.

Thế kỷ XVI-XVII, Thiên chúa giáo bắt đầu du nhập Việt Nam. Phật giáo Việt Nam tuy không hưng thịnh như trước, nhưng vẫn được nối tiếp không dứt. Đương thời, chính quyền phong kiến trung ương suy tàn, hình thành cục diện cát cứ Nam Bắc phân tranh, Phật giáo lại được chấn hưng. Chúa Trịnh đàng ngoài và chúa Nguyễn đàng trong đều khuyến khích đạo Phật, mời cao tăng Trung Quốc đến giảng kinh Phật, tu sửa xây dựng chùa chiền. Năm 1665, chúa Trịnh tuyển dụng những vị sư nổi tiếng trong nước, tạc vài trăm tượng Phật trong chùa miếu phục vụ cho nhà vua. Thiền tông lại được phục hưng. Danh tăng Bạch Mai Lân kế thừa giáo nghĩa Tam Tổ Trúc lâm, ở núi Yên Tử nơi ẩn cư Thiền phái Trúc lâm đã hợp nhất với Tịnh Thổ Tông, chùa Bà (Thạch Đa) ở Hà Nội khai sáng giáo phái mới - Liên Tông. Chủ trương Thiền giáo cùng vận hành, lấy Giáo làm mắt, Thiền làm Phật tâm, lấy A Di Đà Phật làm công án Thiền, nhưng trên thực tế là niệm tên Di Đà, do vậy mà được ngộ trong cuộc sống. Ngoài ra, ở miền Bắc Việt Nam có Chuyết Công phái do Hòa thượng Trung Quốc Chuyết Công sáng lập, phái này lấy Lâm Tế tông làm chủ, còn chịu ảnh hưởng của Tịnh Thổ tông, cũng xưng là phái mới Trúc Lâm. Đồng thời, còn có Thủy Nguyệt phái của Tào Động tông. Năm 1604, chúa Nguyễn đàng trong cho xây dựng chùa Thiên Mụ - Tự viện của Phật giáo đại thừa. Những tăng nhân Trung Quốc như Đạo Minh, Nguyên Thiệu… truyền thụ Thiền tông cho Phật tử ở Việt Nam. Nguyên Thiệu đã sáng lập Thiền phái Nguyên Thiệu chính tông Lâm Tế, dựng 10 tháp chùa ở Bình Định, tuyên truyền giáo nghĩa Thiền tĩnh cùng tu. Đến nay, phái Liên Tông có ảnh hưởng nhất định ở miền Bắc Việt Nam, thế lực tương đối lớn.

Đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn kiến lập. Những năm đầu triều Nguyễn thi hành chính sách bảo hộ chính tông Lâm Tế, kỳ thị Liên Tông. Những chức vụ của tăng lữ đều do Lâm Tế Chính tông phái phong cấp, hạn chế nhiều đối với tăng lữ Liên tông. Nhưng Liên Tông vẫn hoạt động trong dân gian miền Bắc Việt Nam.

Trong năm 1858, thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, giáo đồ Phật giáo Việt Nam tham gia cuộc vận động chống Pháp yêu nước. Đến thời kỳ cận đại, Việt Nam phát triển vận động và hợp nhất tam giáo cả Nho Phật Đạo. Thế kỷ XIX, tùy theo sự truyền bá của Thiên Chúa giáo, lại xuất hiện “Tứ số nhất nguyên thuyết” (Thuyết nhất nguyên bốn số). Thời kỳ này giáo phái Cao Đài ra đời, đem cả Phật Đạo Nho và Thiên Chúa giáo cùng tín ngưỡng dân gian hợp nhất thành tôn giáo mới.

Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, đến 30-4-1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Phật giáo Việt Nam được Chính phủ ủng hộ. Giới nhân sĩ Phật giáo tích cực tham gia sự nghiệp giải phóng và cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược, cống hiến tích cực trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Hiện nay họ lại tích cực tham gia sự nghiệp từ thiện, ủng hộ Chính phủ. Vì vậy được Chính phủ khẳng định và ủng hộ.

(Xem tiếp phần 2)

* Đại học Sư phạm Hà Nội

Nguồn:

Cùng chuyên mục