Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam (Phần 2)

Những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam (Phần 2)

C.Mác đã từng chỉ rõ, mọi hoạt động văn hóa của loài người trước hết thuộc về lao động vật chất cảm tính,“tôn giáo, gia đình, nhà nước, luật pháp, đạo đức, khoa học, nghệ thuật, v.v.. đều là phương thức đặc thù của sản xuất, hơn nữa, còn thực sự chi phối của quy luật phổ biến của sản xuất”. Như vậy, lao động, thực tiễn v.v.. những hoạt động tự giác có ý thức, có mục đích của loài người đã xác nhận rõ “sự tồn tại loài” của con người, đó cũng chính là nguồn gốc bản chất chân thực của con người, cũng là nguồn gốc bản chất của văn hóa.

02:30 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam

PGS, TS Lê Văn Toan*

(Tiếp theo phần 1)

Một là, văn hóa là một loại sức sản xuất đặc thù: Tính đặc thù của nó ở chỗ, văn hóa ảnh hưởng và chế ước các hoạt động kinh tế một cách tích cực, năng động bằng các hiệu năng tổng hợp các quan niệm, hành vi, và trên một mức độ nhất định, đã trở thành lực lượng cấu thành nội tại của hoạt động kinh tế.

Nói một cách tổng quát về lao động sản xuất của loài người gồm hai dạng lớn: Lao động vật chất và lao động tinh thần. Lao động tinh thần là một trong những hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng nhất của loài người. Thực tiễn lao động sản xuất của loài người là những hoạt động có ý thức, có mục đích, tức là sự thống nhất giữa lao động chân tay và lao động trí tuệ. Mọi hoạt động sản xuất của con người là những hành vi được tiến hành dưới sự chi phối của tư tưởng, ý thức, quan niệm trên cơ sở những điều kiện khoa học và kỹ thuật nhất định. Và tất cả những điều trên không thể tách rời cơ cở văn hóa và bối cảnh văn hóa nhất định. Với tư cách là một mô thức đã định của quan niệm và hành vi, văn hóa thẩm thấu và xuyên suốt toàn bộ quá trình lao động vật chất và lao động tinh thần, và phát huy tác dụng của nó một cách hết sức sâu sắc.

Hai là, xét từ quan điểm văn hóa và quan điểm sức sản xuất lớn, ta thấy rõ trong chúng có mối quan hệ biện chứng. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, cùng với việc sức sản xuất giải quyết được việc biến đổi vật chất giữa con người với tự nhiên thì cũng luôn mang hình thái vật hóa thâm nhập sâu vào trong quá trình biến động của tinh thần, mà văn hóa cũng dùng hình thức hành vi và hệ thống quan niệm giá trị của mình phát triển, mở rộng đến cả biên giới của tự nhiên khách quan. Vì thế, văn hóa và sức sản xuất trong toàn bộ thực tiễn xã hội chủ yếu là trong hoạt động kinh tế , luôn thẩm thấu lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau và luôn đạt được sự thống nhất nội tại. Xét từ quan điểm sức sản xuất lớn thì văn hóa là sức sản xuất. Xét từ quan điểm đại văn hóa thì sức sản xuất cũng là văn hóa.

Từ những phân tích trên, chúng ta càng thẩu hiểu hơn trong lĩnh vực học thuật đã từng xuất hiện hơn 400 định nghĩa về văn hóa. Cũng từ luận giải trên mà các nhà nghiên cứu về văn hóa trong và ngoài nước đúc kết thành nhiều đặc trưng của văn hóa, trong đó nổi bật nhất bà bốn đặc trưng cơ bản sau:

 - Một là, tính hệ thống. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của cộng đồng người. Từ những thành tố căn bản này đã nẩy sinh và bao gồm những tập hợp nhỏ nhiều tầng bậc khác nhau tạo thành một tổng thể phức tạp, phong phú.

 - Hai là, tính giá trị. Văn hóa bao gồm các giá trị (giá trị thuộc về đời sống vật chất, giá trị thuộc về đời sống tinh thần) trở thành thước đó về mức độ nhân bản của xã hội và con người. Trong lịch sử phát triển của nhân loại có giá trị của văn hóa để tồn tại và có giá trị của văn hóa để phát triển.

 - Ba là, tính lịch sử. Văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ, là những thành tựu do cộng đồng người trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội mà được sáng tạo và luôn hướng tới sự hoàn thiện để đạt đến tính giá trị.

 - Bốn là, tính nhân sinh. Văn hóa là một hiện tượng thuộc về xã hội loài người, gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, là những giá trị do một cộng đồng người sáng tạo ra, thuộc về con người, ở trong con người và mang dấu ấn người. Điều đó cho thấy, con người vừa là chủ thể của văn hóa, đồng thời là khách thể của văn hóa, lại vừa là sản phẩm văn hóa.

2. Điều kiện hình thành văn hóa và những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam

Văn hóa vốn là một hoạt động thuộc thế giới người nói chung và cũng là đặc trưng của mỗi cộng đồng người nói riêng. Nó là điều kiện sinh tồn của mỗi một con người, đồng thời cũng là thành tựu của từng tộc người và là cái để phân biệt giữa cộng đồng người này với cộng đồng người khác, là tấm “chứng minh thư” để xác định cá tính của từng dân tộc trong cộng đồng nhân loại, là “tấm giấy thông hành” giúp các quốc gia dân tộc cùng ngồi đàm phán, là thông điệp đưa các dân tộc xích lại gần nhau, là cơ sở, là nền tảng, là trụ cột, là sức mạnh quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội.

Văn hóa với tiềm lực, sức sống và thực lực độc đáo của mình, biểu hiện và tỏ rõ sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Đương nhiên, khi bàn về văn hóa nói chung hay văn hóa của một quốc gia dân tộc nói riêng là phải đề cập đến tự nhiên, vì xét cho cùng, cái “văn hóa” chỉ là cái “tự nhiên” được thích ứng và biến đổi bởi “con người”, để thỏa mãn những nhu cầu về mọi mặt của con người.

Cội nguồn của những đặc điểm, đặc trưng văn hóa dân tộc cố nhiên phải tìm trong những điều kiện lịch sử của dân tộc. Nhưng trước đó, và trong suốt quá trình lịch sử, cũng phải thấy những điều kiện địa lý từ đó ảnh hưởng đến phương thức canh tác, đến hình thái kinh tế… và áp lực của chúng lên hình thái xã hội – chính trị. Văn hóa trước hết là một sự trả lời, một sự ứng phó của cộng đồng cư dân trước những thành thức của những điều kiện địa lý – khí hậu, và sau đó là sự trả lời, ứng phó trước những thách thức của những điều kiện xã hội – lịch sử. Bởi vậy, khi bàn đến nét riêng biệt – cái đặc trưng của văn hóa Việt Nam thì phải tìm cội nguồn của nó từ thời đại đá mới, thời đại phát sinh nông nghiệp và làng xóm, phải chú ý đến những điều kiện nền tảng địa lý và môi trường thiên nhiên đã sản sinh nên những đặc trưng, đặc điểm văn hóa ấy. Không nên tách rời văn hóa với thiên nhiên. Vậy thì, xét về mặt thiên nhiên, nhân chủng, văn hóa Việt Nam khởi thủy là cùng chung trong khu vực Đông Nam Á chứ không phải là một với Trung Hoa. Khởi thủy, không gian địa lý tự nhiên Đông Nam Á bao gồm cả khu vực sông Trường Giang kéo dài về phương nam, khu vực phía Nam dải Tần Lãnh và gồm cả khu vực Atxam hiện tại. Môi trường thiên nhiên ở đây nảy sinh và phát triển văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Về mặt nhân chủng, cho đến giữa thiên niên kỳ thứ nhất trước công nguyên, về cơ bản, vùng Bách Việt theo nghĩa rộng, vùng Việt – Mường là vùng phi Hoa, phi Ấn. Đến khi Trung Quốc bành trướng xuống lưu vực sông Trường Giang thì Việt Nam và Trung Quốc căn bản là khác nhau: Việt Nam là vùng châu Á gió mùa, Trung Quốc là vùng châu Á đại lục, Việt Nam là vùng nông nghiệp lúa nước, Trung Quốc là vùng nông nghiệp khô ( trồng kê, cao lương, lúa mạch). Từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, Trung Quốc bành trướng xuống lưu vực sông Trường Giang và xa mãi về phía Nam, vùng Bách Việt co lại dần, chỉ còn lại Việt Nam – đại biểu duy nhất còn sót lại của phức hợp Bách Việt ngày xưa, tồn tại vừa với tính chất Dân tộc – Nhà nước (Nation – Etat), vừa với tính chất Dân tộc – Nhân dân (Nation – People). Từ đó xuất hiện trên thực tiễn những cái bất dị giữa Việt Nam và Trung Quốc[1]. Vậy là, cái khác nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc có trước, cái giống nhau giữa hai nước là có sau. (Còn tiếp) (Xem tiếp phần 3)


[1] Xem thêm Trần Quốc Vượng: Văn hóa Việt Nam -  tìm tòi  và suy ngẫm. NXB Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 2000, tr.56-77.

* Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Nguồn:

Cùng chuyên mục