Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh những năm đầu thế kỷ XXI (Phần 3)

Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh những năm đầu thế kỷ XXI (Phần 3)

Quan hệ quốc phòng Việt Nam - Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI được thiết lập dựa trên cơ sở các tuyên bố chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, Nghị định thư về hợp tác quốc phòng (năm 2000). Hợp tác an ninh giữa hai nước ngày càng được tăng cường và củng cố. Trong Tuyên bố chung tháng 5/2003 nhân chuyến thăm của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, hai bên nhất trí từng bước mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực an ninh, như đàm phán ký hiệp định song phương về chống tội phạm, kinh nghiệm chống khủng bố quốc tế và những cơ chế ủng hộ khủng bố, đặc biệt là tội phạm có tổ chức và việc buôn lậu vũ khí và ma túy.

02:18 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

(Tiếp theo phần 2)

Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh những năm  đầu thế kỷ XXI

Trung tướng, PGS, TS Hoàng Văn Đồng*

 

Trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 7/2007, hai bên thoả thuận tiếp tục tăng cường hợp tác về an ninh, đặc biệt là trong hợp tác đào tạo, trao đổi thông tin, chống khủng bố, cướp biển và tội phạm xuyên quốc gia9. Quan hệ an ninh tiếp tục được được thắt chặt hơn một bước, thể hiện độ tin cậy lẫn nhau ngày càng tăng qua chuyến thăm của lãnh đạo an ninh hai nước. Trong chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Ấn Độ Shivraj Patil tháng 10/2007, hai bên ký Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và thỏa thuận trao đổi thông tin tình báo về chống khủng bố. Trong chuyến thăm Ấn Độ của Bộ trưởng Công an Lê Hồng Anh tháng 3/2008, hai bên ký Bản ghi nhớ về hợp tác song phương trong lĩnh vực an ninh (trong đó có chống khủng bố quốc tế, buôn lậu ma túy và tội phạm xuyên quốc gia)10; Ấn Độ hỗ trợ 500.000 USD để Việt Nam lập Phòng phục hồi dữ liệu điện tử điều tra tội phạm và giúp đào tạo sĩ quan an ninh Việt Nam điều tra các tội phạm về ngân hàng, rửa tiền, tội phạm có tổ chức, tội phạm về kinh tế, buôn bán ma túy, tội phạm tin học và khoa học điều tra11. Ấn Độ nhận đào tạo cho Việt Nam một số cán bộ nghiệp vụ trong lĩnh vực này, Ấn Độ đã mở hai khóa học tương tự dành cho sĩ quan an ninh Việt Nam. Tháng 6/2009, hai bên cũng ký Hiệp định Dẫn độ tội phạm. Phía Bộ Công an Việt Nam cũng cử nhiều đoàn sang Ấn Độ để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm an ninh, nhất là việc áp dụng khoa học công nghệ vào công tác an ninh.

Chuyến thăm Ấn Độ từ 29-10 đến 1/11/2013 của Đại tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam, đã góp phần tăng cường quan hệ giữa Bộ Nội vụ Ấn Độ và Bộ Công an Việt Nam, làm sâu sắc thêm mối quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác chiến lược giữa hai nước. Đặc biệt, được sự ủy quyền của Chính phủ hai nước, Bộ trưởng Trần Đại Quang và Bộ trưởng Sushilkumar Shinde đã ký Hiệp định song phương về chuyển giao người bị kết án phạt tù. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, tạo điều kiện cho các cơ quan thực thi pháp luật hai nước tăng cường hợp tác có hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của mỗi nước, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn đinh và lợi ích của nhân dân hai nước.

Có thể thấy, quan hệ hợp tác về an ninh đang tiến triển tốt và có sự tin cậy nhất định với sự hỗ trợ bước đầu của Ấn Độ, mặc dù đến nay chưa có thông tin về các tội phạm có tổ chức của Ấn Độ hoạt động ở Việt Nam và ngược lại.

2. Triển vọng quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đến năm 2020 và khuyến nghị

 * Triển vọng

Thời gian tới, hợp tác quốc phòng sẽ tiếp tục là trụ cột quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược giữa 2 nước. Triển vọng này về cơ bản phù hợp với chiều hướng phát triển của quan hệ hai nước và phù hợp với chính sách cân bằng các nước lớn của Việt Nam.  Bởi lý do sau:

(1) Thời gian tới, Ấn Độ tiếp tục tăng cường khả năng quốc phòng. Ngân sách quốc phòng của Ấn Độ dự kiến chi tổng cộng 200 tỷ USD đến năm 2016 để hiện đại hóa vũ khí. Như vậy, Ấn Độ sẽ tăng cường mở rộng sức mạnh quốc phòng ra bên ngoài và Việt Nam có nhiều cơ hội nhận các thiết bị, khí tài quân sự cũ của Ấn Độ.

(2) Vai trò của Trung Quốc có ảnh hưởng quan trọng đến triển vọng quan hệ quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam và Ấn Độ. Thời gian tới, tình hình Biển Đông có lúc căng thẳng, lúc hòa dịu, nhiều khả năng không có xung đột lớn về quân sự. Ấn Độ sẽ tích cực tăng cường sự hiện diện của lực lượng hải quân tại Biển Đông để kiềm chế Trung Quốc và tăng cường ảnh hưởng tại khu vực, nhưng có nhiều khả năng Ấn Độ sẽ không can thiệp khi lợi ích của Việt Nam bị xâm phạm ở Biển Đông khi tính đến lợi ích trong quan hệ của Ấn Độ với Trung Quốc, Mỹ và ASEAN. Việc thúc đẩy quan hệ quốc phòng giữa hai nước cũng không thể vượt ra khỏi chính sách về cân bằng nước lớn ở khu vực Đông Nam Á của Việt Nam và Ấn Độ.

(3) Quan hệ quốc phòng Việt Nam - Ấn Độ đến năm 2020 phát triển ổn định, tiếp tục tập trung ưu tiên vào hoàn thiện cơ sở pháp lý về hợp tác quốc phòng; tăng cường sự hiện diện của hải quân Ấn Độ tại Biển Đông, hợp tác về kỹ thuật quốc phòng (nhất là về bảo dưỡng thiết bị quân sự) các vấn đề an ninh phi truyền thống (như chống khủng bố, chống cướp biển, cứu hộ, cứu nạn,v.v.); hỗ trợ kỹ thuật các thiết bị quốc phòng do Nga sản xuất (năm 2010, 70% vũ khí của Ấn Độ nhập từ Nga), đào tạo sĩ quan quốc phòng (đặc biệt Ấn Độ giúp Việt Nam đào tạo lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, vì Ấn Độ có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này; riêng năm 2010, Ấn Độ đã cử 8919 lính tham gia gìn giữ hòa bình). Việt Nam cũng cần giúp Ấn Độ tăng cường hiện diện của hải quân Ấn Độ tại Biển Đông. Các vấn đề thực chất của quan hệ quốc phòng (mua bán vũ khí, hợp tác chiến lược, tập trận chung về chiến đấu) cũng tiếp tục phát triển nhưng ở mức độ vừa phải. thúc đẩy phối hợp trong ARF và ADMM+..

(4) Việt Nam là thành viên của ASEAN, mà giữa các nước thành viên ASEAN và Ấn Độ từ lâu đã có mối liên hệ mật thiết về văn hóa, lịch sử, kinh tế, chia sẻ nhiều lợi ích và quan điểm tương đồng trên các vấn đề quốc tế. 22 năm trước, hai bên đã thiết lập quan hệ đối thoại, kể từ đó quan hệ hợp tác giữa hai bên đã liên tục phát triển trên nhiều lĩnh vực. Chủ trương của ASEAN thắt chặt quan hệ với Ấn Độ đã gặp "chính sách hướng Đông" của Ấn Độ và hai bên đã quyết định nâng quan hệ lên tầm đối tác chiến lược từ năm 2012, đánh dấu mốc mới trong sự hợp tác ASEAN-Ấn Độ. Ngày nay, Ấn Độ là bạn hàng thứ 6 của ASEAN với kim ngạch buôn bán hai chiều lên tới gần 72 tỷ USD và dự kiến sẽ đưa lên mức 100 tỷ vào năm 2015. ASEAN coi trọng và đánh giá cao vai trò tích cực của Ấn Độ trong Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), lập trường của Ấn Độ về vấn đề Biển Đông, sự ủng hộ mạnh mẽ của Ấn Độ đối với quá trình hình thành cộng đồng ASEAN và những đóng góp thiết thực của Ấn Độ cho các quỹ phát triển ASEAN, Quỹ hợp tác ASEAN - Ấn Độ, Quỹ phát triển khoa học - công nghệ và Quỹ xanh ASEAN - Ấn Độ... Trong thời gian tới, hai bên đứng trước yêu cầu gia tăng sự kết nối toàn diện, nhất là về hạ tầng giao thông, thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư, khoa học, du lịch, đẩy mạnh hợp tác trong việc đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, phối hợp chặt chẽ tại các cơ chế khu vực do ASEAN đóng vai trò trung tâm. Với tư cách là một thành viên tích cực của ASEAN và người bạn gần gũi của Ấn Độ, Việt Nam sẽ tiếp tục làm hết sức mình để góp phần vào việc không ngừng thúc đẩy, tăng cường quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Ấn Độ

* Một số khuyến nghị

Một là, tiếp tục tăng cường trao đổi đoàn các cấp giữa các lực lượng quốc phòng và an ninh của hai nước, trong đó duy trì thường xuyên các chuyến thăm lẫn nhau của Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Công an (về phía Ấn Độ là Bộ trưởng Nội vụ) 02 năm một lần.

 Hai là, thúc đẩy ký Hiệp định về hợp tác quốc phòng giữa hai nước (Ấn Độ đã ký với Indonesia Hiệp định loại này từ năm 2001, trong khi hai nước này đến 2005 mới thiết lập quan hệ đối tác chiến lược).

 Ba là, tiếp tục tăng cường mạnh sự hiện diện của hải quân Ấn Độ tại Biển Đông như: tiếp tục mời các tàu hải quân Ấn Độ thăm các cảng của Việt Nam 02 lần/năm, thuê Ấn Độ khảo sát địa chất tại Biển Đông, v.v.. Việt Nam thúc đẩy học hỏi kinh nghiệm của Ấn Độ về nâng cao năng lực hải quân Việt Nam, đặc biệt là tác chiến trên biển. Việt Nam có thể tham gia thường xuyên hơn các cuộc tập trận đa phương với sự tham gia của một số nước ASEAN, bước đầu chủ yếu về các vấn đề an ninh phi truyền thống (chống cướp biển, cứu hộ, cứu nạn, v.v.), sau đó, tùy tình hình thích hợp có thể tham gia phối hợp tác chiến hải quân trên biển.

Bốn là, thúc đẩy hợp tác an ninh với Ấn Độ trong khuôn khổ ARF và ADMM+, thúc đẩy Ấn Độ đóng vai trò lớn hơn vào các diễn đàn an ninh khu vực và lên tiếng ủng hộ lập trường của Việt Nam về một số vấn đề liên quan đến Biển Đông (như tự do hàng hải).

Năm là, tăng cường hợp tác về lục quân và không quân với Ấn Độ, trong đó Việt Nam có thể trao đổi kinh nghiệm chống chiến tranh du kích với Ấn Độ để giúp Ấn Độ đối phó với phiến quân tại vùng Đông Bắc, đào tạo phi công Việt Nam, Ấn Độ giúp Việt Nam đào tạo lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.

Sáu là, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, trong đó có mua vũ khí (đặc biệt là tên lửa không mang đầu đạn hạt nhân), đề nghị Ấn Độ viện trợ phụ tùng quân sự của Ấn Độ do Nga sản xuất để đảm bảo duy trì hoạt động, sửa chữa, nâng cấp vũ khí và các thiết bị quân sự, đặc biệt là bảo dưỡng các tàu hải quân của Việt Nam; thúc đẩy doanh nghiệp quốc phòng của hai bên hợp tác về công nghiệp quốc phòng.

Bảy là, tăng cường chuyển giao công nghệ từ Ấn Độ về các thiết bị quốc phòng và an ninh, đặc biệt là các thiết bị kỹ thuật, các thiết bị định vị và giám sát qua vệ tinh để tăng cường khả năng giám sát bờ biển của Việt Nam.

Tám là, hai bên cần tăng cường hơn nữa hợp tác chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia và cướp biển; trao đổi thông tin tình báo.

Chín là, tranh thủ sự giúp đỡ của Ấn Độ về đào tạo sĩ quan quốc phòng và an ninh, trong đó có tiếng Anh; trước mắt sử dụng hết số học bổng mà Ấn Độ dành cho lực lượng vũ trang Việt Nam.

Tóm lại, cây hữu nghị Việt - Ấn đang ngày càng phát triển xanh tươi, đơm hoa thơm và kết trái ngọt. Là hai nền kinh tế đang vươn lên mạnh mẽ, triển vọng tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới là hết sức to lớn. Việt Nam luôn mong muốn không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Ấn Độ trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, văn hoá, khoa học - công nghệ, giáo dục và đào tạo,... lên một tầm cao mới, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế ở mỗi nước và nâng cao vị thế của hai nước trên trường quốc tế. Đúng như lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi thăm Ấn Độ năm 1980 rằng, “quan hệ hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ trong sáng như bầu trời không một gợn mây”. Lời nói đã trải qua thời gian 35 năm này vẫn như một câu châm ngôn để kiểm chứng mối tình hữu nghị thủy chung son sắt giữa Việt Nam và Ấn Độ.


* Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam.

9 Xuân Ba, Việt Nam - Ấn Độ thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, http://vietbao.vn, cập nhật ngày 7/7/2007

10 Việt Nam và Ấn Độ tăng cường hợp tác an ninh, http://www.mofahcm.gov.vn,

cập nhật ngày 27/3/2008

11 Press Information Bureau – Government of India (2008), India and Vietnam sign MoU for Bilateral Cooperation in Security Matters, updated 24 March 2008, (http://pib.nic.in).

Nguồn:

Cùng chuyên mục