Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Chính sách phát triển tôn giáo bản địa và tôn giáo ngoại lai của Chính phủ Ấn Độ (Phần 1)

Chính sách phát triển tôn giáo bản địa và tôn giáo ngoại lai của Chính phủ Ấn Độ (Phần 1)

Ấn Độ là một trong những cái nôi sớm nhất của nền văn minh nhân loại. Nền văn minh Ấn - Hằng, từ 3000 năm trước CN tồn tại và bồi đắp theo dòng lịch sử, to cao sừng sững như dãy núi Hymalaya hùng vĩ với ngọn Meru thần thánh được gọi là cột trụ trời, là cõi trời tỏa chiếu ánh hào quang lấp lánh, rực sáng cả vùng trời phương Đông. Cũng chính từ cột trụ trời ấy mà Ấn Độ huyền bí, nền văn hóa Ấn Độ huyền bí đi vào cõi tâm linh, và chính Ấn Độ chứ không phải nơi nào khác dẫn đưa các vùng đất phương Đông trở thành duy linh. Đó là kết tinh sâu thẳm mọi giá trị của văn hóa Ấn Độ, và chừng nào đó, của văn hóa phương Đông.

05:38 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

PGS, TS. Vũ Trọng Dung*

1. Mối quan hệ giữa tôn giáo bản địa và tôn giáo ngoại lai ở Ấn Độ

Ấn Độ là quê hương của các tôn giáo lớn (Ấn Độ giáo, Phật giáo) và là tiểu lục địa dung chứa nhiều tôn giáo nhất, cả tôn giáo bản địa và tôn giáo ngoại nhập (đạo Hồi, đạo Thiên chúa…). Tất cả các tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ đều chung sống hòa bình, khoan dung dưới mái nhà văn hóa Ấn Độ. Mỗi tôn giáo đều có tôn chỉ, giáo lý của mình nhưng đều hướng thiện. Những khái niệm như luân hồi (samsara), nghiệp báo (karma), nhân quả hay quá trình tu luyện hướng tới mục đích cuối cùng là giải thoát, siêu thoát (moksa) và những điều răn sống đạo đức, bình đẳng, bác ái, thực hiện đúng dharma, hay luật bất tồn sinh (ahimsa) đều có thể tìm thấy trong đạo Hindu ra đời sớm nhất, quyện chặt và song hành với sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt mang tính chất thế tập (cha truyền con nối, đời đời không bao giờ thay đổi, bất di bất dịch về huyết thống) và tạo nên cấu trúc xã hội Ấn Độ tồn tại lâu dài.

Tuy nhiên, trong lịch sử Ấn Độ mối quan hệ giữa tôn giáo bản địa và tôn giáo ngoại lai đã có những mâu thuẫn, xung đột ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong số hơn một tỷ người ở Ấn Độ, 85% là người Ấn Độ giáo, 10% người Hồi giáo, và 2,5% Kitô hữu. Phần còn lại thuộc về thiểu số tôn giáo khác: Sikh, Kỳ Na giáo, Phật tử và các nhóm khác. Vì vậy, xung đột giữa tôn giáo bản địa và tôn giáo ngoại lai ở Ấn Độ chủ yếu là xung đột giữa Ấn Độ giáo với Thiên Chúa giáo và Hồi giáo.

Trong lịch sử, Ấn giáo và Kitô giáo đã sống trong hòa bình tương đối kể từ khi sự xuất hiện của Thiên Chúa giáo ở Ấn Độ trong năm đầu của thiên niên kỷ đầu tiên. Sự xuất hiện của thực dân châu Âu đã đưa hoạt động truyền giáo quy mô khoảng lớn ở miền Nam Ấn Độ và Đông Bắc Ấn Độ. Nhiều người từ các nền văn hóa bản địa chuyển đổi sang Thiên Chúa giáo, đôi khi tự nguyện và thời gian khác dữ dội và mạnh mẽ. Các Goa Inquisition cung cấp một ví dụ về chuyển đổi bắt buộc đối với người theo đạo Hindu, Hồi giáo và Do Thái ở Ấn Độ.

Trong mối quan hệ hay xung đột giữa Ấn Độ giáo và Thiên Chúa giáo phải kể đến sự kiện năm 2008 tại Ấn Độ. Một cơn cuồng bạo đã càn quyét quận Kandhamal miền Đông Ấn, hồi tháng 8, 2008, sau khi một lãnh đạo Ấn giáo trong vùng bị giết, và người ta đổ tội cho cộng đồng thiểu số Kitô giáo. Nạn bạo lực mang tính hệ thống chống lại các Kitô hữu ở Ấn Độ, vẫn còn đến tận hôm nay, dù cho chúng không tàn bạo man rợ như ở Kandhamal. Một trang web ở Ấn Độ nói về bách hại Kitô giáo, có tên là “Lên tiếng chống Thù hận” cho biết, trong năm 2015, trung bình có một vụ bạo lực mỗi tuần.

Các Kitô hữu cũng là mục tiêu bị tấn công ở các nước châu Á khác, nơi con số Kitô hữu đang ngày một tăng, khiến cho những người thuộc các đức tin khác, hay nhà nước chính trị, đang cảm thấy bị đe dọa. Và dù như thế, Ấn Độ vẫn là vùng nguy hiểm đặc biệt. Còn với cộng đồng thiểu số Kitô giáo ở Ấn Độ ngày nay, thì nghĩ như người phương Tây thật là bóp méo tàn tệ. Họ phải đối diện với các các mối đe dọa bách hại và thậm chí là tàn sát mỗi ngày, và thế giới thì hiếm khi biết đến. Kitô giáo ở đây bị xem là dành riêng cho Dalit - giai cấp tiện dân dưới đáy của chế độ giai cấp vẫn còn đang rất mạnh ở Ấn Độ, và Tribal, con cháu của những bộ lạc thuần huyết. Họ là những nạn nhân dễ dàng phơi ra cho khinh miệt và bạo lực, thậm chí còn bị xem là đáng bị như vậy.

Với những người Ấn Độ khác, họ sợ và khinh miệt Kitô giáo như là một tôn giáo chiêu mộ, và do đó, là một mối đe dọa khiến người ta bỏ Ấn giáo (Hindu giáo) tôn giáo thống trị lâu đời của quốc gia này. Với một số người, đặc biệt là các binh lính Ấn giáo cánh hữu - những người dấy bạo động và giết người ở Kandhamal, và những người thuộc giai cấp cao đang cai quản đất nước, thì đáp trả mối đe dọa này bằng bạo lực là một chuyện hoàn toàn thích đáng.

Mức độ bách hại là rất lớn. Dù cho Kitô hữu chỉ là nhóm thiểu số nhỏ ở Ấn Độ, chưa đến 3%, nhưng họ lại thuộc một quốc gia vô cùng đông dân, nên con số này ước tính lên đến 24 triệu người. Với những người Ấn tự hào về di sản đa nguyên của mình, thì những đau khổ trên các Kitô hữu và các nhóm thiểu số khác, đặc biệt là người Hồi giáo, thật là một nỗi hổ thẹn.

Ram Puniyani, một người Ấn giáo thuộc giai cấp cao, và là nhà hoạt động vì hòa bình có trụ sở ở Mumbai, cho biết, “Khi tôi còn đi học, sự đa dạng được tán dương. Nhưng rồi, chúng tôi lại chuyển qua ngày càng hiếm dung thứ cho sự đa dạng, và bây giờ là chìm sâu trong thái độ thù địch hoàn toàn” và “Đã rất lâu, chúng tôi đổ tội cho phương Tây là bất dung và định kiến, do bởi lịch sử thực dân. Còn bây giờ, dường như chúng tôi cũng chẳng hơn gì họ”.

Quan hệ Ấn Độ giáo với Hồi giáo và Kitô giáo trong một số cách thức hoàn toàn khác nhau từ các mối quan hệ căng thẳng và ràng buộc với tôn giáo gốc Ấn Độ. Người Hindu sống với một di sản của sự thống trị của nhà cầm quyền Hồi giáo và Kitô giáo trải dài từ nhiều thế kỷ, ở miền bắc Ấn Độ, đến Vương quốc Hồi giáo Delhi thành lập vào đầu thế kỷ thứ XIII. Các mô hình của mối quan hệ giữa người Hindu và người Hồi giáo đã khác giữa phía bắc và phía nam Ấn Độ. Trong khi có một lịch sử của cuộc chinh phục và thống trị ở phía bắc, quan hệ Ấn-Hồi giáo ở Kerala và Tamil Nadu đã được hòa bình. Hồi giáo đã đến miền nam Ấn Độ rất sớm, có thể khoảng thế kỷ thứ VII, các nhà buôn và các tuyến đường biển. Đầu thế kỷ XIX Sira Puranam, một tiểu sử của nhà tiên tri Muhammad, là một ví dụ tuyệt vời. Ngoài ra còn có hàng trăm gian nghi lễ được chia sẻ, được gọi là dargahs (nghĩa đen, "ô cửa" hay "ngưỡng"), người Hindu và người Hồi giáo. Hơn nữa, gần và tương tác hàng ngày trong suốt nhiều thế kỷ đã dẫn đến những nỗ lực để thích ứng với sự tồn tại của hai tôn giáo. Một biểu hiện của sự chung sống như vậy xảy ra trong một số nhóm người tin rằng, một Thiên Chúa, hoặc các "nguyên tắc phổ quát," là như nhau bất kể nó được gọi là Allah hay Bà La Môn. (Xem tiếp phần 2)


* Giảng viên cao cấp, Học viện Chính trị Khu vực I

Nguồn:

Cùng chuyên mục