Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

banner-vi banner-vi

Chủ nghĩa đa phương hậu Liên Hợp Quốc

Chủ nghĩa đa phương hậu Liên Hợp Quốc

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ trân trọng giới thiệu bài viết của Ngài Ram Madhav, Chủ tịch cơ quan nghiên cứu India Foundation Ấn Độ về chủ nghĩa đa phương và Liên Hợp Quốc. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

04:31 09-11-2025 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Tổ chức Liên Hợp Quốc đã kỷ niệm 80 năm thành lập trong tuần cuối tháng 10/2025. Hàng loạt bài viết tìm cách quảng bá tổ chức này như liều thuốc chữa bách bệnh duy nhất cho nhân loại đã bộc lộ cảm giác lo lắng về tương lai của nó. Cựu Tổng Thư ký Ban Ki-Moon đã hồi tưởng lại việc tổ chức này đã cứu sống gia đình ông như thế nào trong Chiến tranh Triều Tiên 1950-1953 và nghiêm túc nhắc nhở rằng trong khi ăn mừng những thành tựu của mình, "chúng ta cũng phải đảm bảo nó phù hợp với mục đích trong thế kỷ 21". Ông cảnh báo rằng việc cải cách hệ thống đa phương là cấp bách và đã đến lúc phải làm.

Nỗi lo lắng này là có cơ sở. Ban Ki-Moon đã nói về cách cơ quan đa phương mới thành lập này đã vượt qua Chiến tranh Triều Tiên thành công. Tuy nhiên, ngày 29 tháng 10 năm 2025, đánh dấu một sự kiện quan trọng khác trong lịch sử của Liên Hợp Quốc. Khi tổ chức này tròn 11 tuổi vào năm 1956, cuộc khủng hoảng Kênh đào Suez đã xảy ra, khi hai thành viên thường trực - Anh và Pháp - cùng với Israel, đơn phương tấn công Ai Cập, đặt ra thách thức đầu tiên cho cơ quan toàn cầu này. Từ Suez bảy thập kỷ trước đến Gaza và Ukraine ngày nay, hành trình của Liên Hợp Quốc không hề huy hoàng. Những người biện hộ có thể lập luận rằng nếu không có Liên Hợp Quốc, hàng triệu người đã chết vì đói và bệnh tật ở Châu Phi và những nơi khác. Nhưng họ không nói về hàng triệu người đã thiệt mạng trong các cuộc chiến tranh khủng khiếp ở Sudan, Rwanda, Campuchia, Bosnia, Iraq và Gaza, đôi khi ngay trước sự hiện diện của Lực lượng An ninh Liên Hợp Quốc (UNSF). Liên Hợp Quốc được thành lập chủ yếu để chấm dứt chiến tranh và duy trì hòa bình và an ninh của các quốc gia, chứ không phải để nuôi sống người đói trong khi quay lưng lại khi xung đột tàn phá các quốc gia.

Đã có những thành công hạn chế trong những năm đơn cực của thập niên 1990 khi thế giới thoát khỏi căng thẳng Chiến tranh Lạnh. Trong giai đoạn 1992-1995, tại Bosnia và Herzegovina, một nước cộng hòa thuộc Nam Tư cũ, bị chiến tranh tàn phá, Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đã được triển khai, và nguồn cung cấp lương thực và thuốc men đã được tổ chức tại các khu vực xung đột. Liên Hợp Quốc cũng thành lập Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư (ICTY) vào tháng 5 năm 1993 và truy tố những người liên quan đến xung đột sắc tộc, bao gồm cả cựu tổng thống Bosnia Slobodan Milosevic. Ba năm sau, khi người Albania và người Serbia rơi vào xung đột vào năm 1998-1999, Liên Hợp Quốc lại triển khai Lực lượng Gìn giữ Hòa bình và đạt được thỏa thuận cuối cùng dưới hình thức công nhận Kosovo là một quốc gia độc lập. Một thành công quan trọng khác, mặc dù ngắn ngủi, trong giai đoạn đó là việc thuyết phục lãnh đạo Triều Tiên đồng ý ngừng hoạt động phổ biến vũ khí hạt nhân vào tháng 11 năm 1994.

Sự suy thoái của Liên Hợp Quốc trong thế kỷ mới bắt đầu từ cuộc xâm lược Iraq đơn phương của Mỹ và các đồng minh vào năm 2003. Khi tổ chức này tiếp tục suy thoái, một mặt, những yêu cầu cải cách ngày càng lớn hơn, mặt khác, ngày càng nhiều nhà lãnh đạo của các quốc gia quan trọng bắt đầu thể hiện sự ít quan tâm hơn đến các vấn đề của Liên Hợp Quốc. Chỉ có 43 nguyên thủ quốc gia tham dự phiên họp năm nay trong khi hầu hết các quốc gia khác cử người đứng đầu cấp bang hoặc các nhà lãnh đạo khác. Tập Cận Bình, nhà lãnh đạo toàn cầu quan trọng nhất sau Mỹ, và Vladimir Putin chỉ tham dự Đại hội đồng Liên Hợp Quốc một lần trong mười năm qua. Lo ngại trước tình hình này, Tổng thư ký Antony Guterres đã cảnh báo các nhà lãnh đạo thế giới tại một phiên họp đặc biệt được tổ chức vào tháng 9 năm 2023 rằng "cải cách hoặc phá vỡ".

Đáng buồn thay, những người kêu gọi cải cách, bao gồm cả Guterres, không biết gì về những gì có thể cải cách. Liên Hợp Quốc được thành lập trên một nền tảng cơ bản đã có nhiều sai sót. Một mặt, 193 quốc gia đang được hưởng sự bình đẳng dân chủ của "Một quốc gia - Một phiếu bầu". Cùng lúc đó, một hệ thống phủ quyết phi dân chủ cũng được tạo ra, khiến năm quốc gia trở nên "bình đẳng hơn" so với các quốc gia khác. Cả hai đều phụ thuộc vào nhau và khiến cơ quan này trở nên kém hiệu quả.

Một số người coi việc mở rộng số lượng thành viên thường trực từ năm lên mười hoặc hơn là một cải cách quan trọng, trong khi những người khác lại cho rằng nên loại bỏ hệ thống phủ quyết. Cả hai đều có vẻ không thể chấp nhận được. Thứ nhất, hệ thống phủ quyết trở nên cần thiết chính xác bởi vì tất cả 193 quốc gia thành viên đều có quyền biểu quyết bình đẳng. Bi kịch là rất nhiều quốc gia trong số đó là các chế độ độc tài và chuyên chế, không trao quyền biểu quyết đó cho công dân của chính họ. Dự đoán khả năng một số quốc gia liên kết với nhau để thông qua các nghị quyết vô lý bằng cách sử dụng đa số áp đảo, năm quốc gia lớn đã trở thành những người bảo vệ lương tâm thông qua quyền phủ quyết. Mặc dù phi dân chủ, nhưng nó đã giúp ngăn chặn Liên Hợp Quốc bị lạm dụng thông qua đa số áp đảo. Các quốc gia như Ấn Độ sẽ phải đối mặt với những tình huống khó khăn về các vấn đề như Kashmir nếu không có quyền phủ quyết. Trước tình thế tiến thoái lưỡng nan này, nếu quyền phủ quyết phải bị bãi bỏ, toàn bộ cơ cấu bỏ phiếu của Liên Hợp Quốc cần phải thay đổi.

Nói thẳng ra, Liên Hợp Quốc đã vượt quá giới hạn cải cách. Cơ cấu của nó là các quốc gia không đảm bảo nhân quyền cho công dân của mình thì ngồi vào các ủy ban nhân quyền, và những quốc gia đàn áp phụ nữ ở quốc gia của họ vẫn có ghế trong các ủy ban nhân quyền. Nga đã phủ quyết 161 lần trong khi Mỹ chỉ phủ quyết 95 lần. Mặt khác, các nhóm lợi ích trong Liên Hợp Quốc đã buộc phải tổ chức ít nhất 8 phiên họp khẩn cấp về Palestine nhưng không hề có phiên họp nào về Sudan, Campuchia, Bosnia hay Rwanda.

Hội Quốc Liên, tiền thân của Liên Hợp Quốc, đã phải đối mặt với tình huống tương tự trong những năm 1930. Nhật Bản và Đức đã rời khỏi tổ chức này, còn Anh và Pháp thì tiếp tục theo đuổi chính sách đơn phương của mình. Mỹ, nước sáng lập ra tổ chức này, đã không bao giờ gia nhập. Các cuộc họp thường niên của Hội Quốc Liên đã ngừng diễn ra sau năm 1939. Khi Liên Hợp Quốc chính thức được thành lập vào tháng 6 năm 1945 sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, ban lãnh đạo Hội Quốc Liên đã họp lần cuối tại Geneva vào tháng 4 năm 1946. "Hội Quốc Liên đã chết. Liên Hợp Quốc muôn năm", Tử tước Robert Cecil, kiến ​​trúc sư chủ chốt của Liên Hợp Quốc và là một chính khách người Anh, đã thốt lên. Đã đến lúc chúng ta cần suy nghĩ tương tự về Liên Hợp Quốc. Khi Hội Quốc Liên trở nên bất lực, hai chính khách – Frederick Roosevelt và Winston Churchill – đã đưa ra Hiến chương Đại Tây Dương vào năm 1941 để giải quyết thực tế toàn cầu mới, dẫn đến việc thành lập Liên Hợp Quốc bốn năm sau đó. Khi thế giới bước vào giai đoạn đa cực, chúng ta cần những chính khách như vậy để xây dựng một chủ nghĩa đa phương mới, chứ không chỉ là những người mơ mộng về cái gọi là “cải cách Liên Hợp Quốc”.

Chú thích ảnh: Ngài Ram Madhav, Chủ tịch India Foundation, phát biểu tại Đối thoại chiến lược Ấn Độ - ASEAN, Kuala Lumpur, Malaysia, tháng 10/2025

Viết bình luận

Bình luận

Cùng chuyên mục