Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Chủ nghĩa dân tộc văn hóa và Hiến pháp Ấn Độ

Chủ nghĩa dân tộc văn hóa và Hiến pháp Ấn Độ

Ấn Độ ngày nay có sự xung đột ngày càng gia tăng giữa hai luồng tư tưởng đang dần thống trị không gian trí tuệ: dòng chảy của chủ nghĩa tự do và dòng chảy của chủ nghĩa dân tộc văn hóa.

05:00 30-06-2023 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Theo một cách nào đó, đây là sự phản ánh của dòng chảy chung của toàn cầu, tuy nhiên, nhưng cũng mang nhiều đặc trưng riêng của Ấn Độ. Trên toàn thế giới, cuộc xung đột này có thể là mới, phần lớn là sản phẩm của toàn cầu hóa, tuy nhiên ở Ấn Độ, nó cũng lâu đời như nền tảng của phong trào dân tộc Ấn Độ và các phong trào dẫn đến nó. Một mặt là của những người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa và mặt khác là những người tự do gắn liền với các tập tục toàn cầu hóa ở phương Tây.  

Nền văn hóa cũ và nền văn minh cổ đại của Ấn Độ, và, sức hút của thế giới hiện đại hóa, toàn cầu hóa mới (ngay từ đầu thế kỷ trước, thế giới đã toàn cầu hóa rất nhanh), chịu ảnh hưởng sâu sắc của các giá trị Tây Âu và Mỹ. Cuộc đấu tranh của các nhà lãnh đạo của phong trào dân tộc, về bản chất, vừa là một phong trào hiện đại hóa vừa là một phong trào chống lại người Anh, những người tiêu biểu cho thời hiện đại hóa, để tạo ra một nhà nước hiện đại từ một nền văn minh cổ đại, chứa đầy mâu thuẫn và thỏa hiệp.

Sự kết hợp của hai dòng chảy đã đạt được vào thời điểm quốc gia Ấn Độ hiện đại hình thành. (a) Đây là hành động thành lập nhà nước của thực thể chính trị Ấn Độ, bao gồm việc giành được độc lập khỏi sự cai trị của nước ngoài và tập hợp về mặt chính trị tại tiểu lục địa Ấn Độ vào một chính phủ, và (b) việc tạo ra bản hiến pháp của Ấn Độ, cân bằng giữa nhu cầu của nền văn minh cổ đại và nhu cầu của nhà nước hiện đại, ngày càng trở nên cấp thiết.

Có rất nhiều lý do và một bài báo bàn về luật pháp không phải là diễn đàn để thảo luận toàn bộ vấn đề, nhưng có thể nói rằng, sự khác biệt giữa hai luồng tư tưởng ở Ấn Độ đã tăng theo cấp số nhân trong vài thập kỷ qua, cả hai đều do thực tế là các thỏa hiệp chính trị đạt được vào thời điểm độc lập đã trở thành dĩ vãng, cũng như do các lực lượng toàn cầu hóa làm trầm trọng thêm xung đột giữa địa phương và toàn cầu.

Trong lĩnh vực trí thức của Ấn Độ, được phản ánh trong giới học thuật pháp lý, xung đột đã trở nên rõ rệt. Trong khi các tổ chức giáo dục hàn lâm ưu tú vẫn bị ràng buộc với các lực lượng toàn cầu hóa tự do, cả học thuyết chủ nghĩa tự do và những người theo chủ nghĩa tự do, thì đã có một xu hướng ngầm, phần lớn bị gạt ra ngoài lề, nhưng ngày càng có tiếng nói, đã lên tiếng về các vấn đề bao gồm mối quan ngại về “chủ nghĩa dân tộc văn hóa”. Bài viết này là một nỗ lực nhằm làm sáng tỏ một số quan niệm và ý tưởng xuyên suốt quá trình khái niệm hóa hiến pháp như một khía cạnh của “chủ nghĩa dân tộc văn hóa”.

Chủ nghĩa dân tộc văn hóa trong pháp lý là gì?

“Chủ nghĩa dân tộc văn hóa” có nhiều tên gọi khác nhau trên toàn cầu, mặc dù có thể mỗi tên gọi mang hàm ý khác nhau. Ở một số quốc gia, nó được gọi là chủ nghĩa bảo thủ. Ở những nơi khác, nó được gọi là “chủ nghĩa ngoại lệ”, đó là việc đi tìm những đặc trưng riêng của quốc gia. Ở các quốc gia khác, nó được gọi đơn giản là “Chủ nghĩa dân tộc”. Ở một số nơi khác nó có tên là “nền dân chủ phi tự do”. Ở các quốc gia khác, chúng được xác định bằng các giới luật tôn giáo của riêng quốc gia đó, như ở Iran, hoặc các thực hành văn hóa được coi là duy nhất mang tính quốc gia như các giá trị châu Á ở Malaysia. Các thuật ngữ này được coi là hệ tư tưởng chủ đạo của các quốc gia và đôi khi cũng được sử dụng để chỉ ra sự khác biệt với sự đồng thuận tự do/tự do phổ biến như Chủ nghĩa Cộng sản ở Trung Quốc.

Tuy nhiên, thuật ngữ được sử dụng thường xuyên nhất gần đúng với khái niệm chủ nghĩa dân tộc văn hóa ở Ấn Độ là chủ nghĩa bảo thủ (từ này được dùng nhiều trong các nước nói tiếng Anh). Một thuật ngữ, với tư cách là một triết lý rõ ràng, đã tồn tại từ thời Edmund Burke[vi]. Nó đã được trình bày bởi nhiều học giả ở Anh và Mỹ, không liệt kê trong bài viết này.

Tại Mỹ, ý tưởng về chủ nghĩa bảo thủ trong bối cảnh hiến pháp thành văn, đã hình thành nên ý tưởng pháp lý về “chủ nghĩa nguyên bản hợp hiến”. Các ý tưởng về “chủ nghĩa nguyên bản hợp hiến” được thúc đẩy bởi các tổ chức như Hiệp hội Liên bang và Quỹ Di sản hiện được chấp nhận là chính thống và hợp pháp tại Mỹ. Các Thẩm phán Tòa án Tối cao như Antonin Scalia và Clarence Thomas đã đi đầu trong việc kết hợp và thúc đẩy các quan niệm về “chủ nghĩa nguyên bản hiến pháp” hoặc “hiểu hiến pháp theo nghĩa gốc” đối lập với ý tưởng “hiến pháp tùy vào hoàn cảnh sống” hoặc “chủ nghĩa tiến bộ hiến pháp”.

Mặt khác, ở Anh, ngành tư pháp đã đẩy lùi ý tưởng chính trị hóa ngành tư pháp theo đường lối của Mỹ, tuy nhiên, dường như quyền lực tư pháp ngày càng được tích lũy với cái giá phải trả là Chủ quyền của Nghị viện, vốn là nền tảng của nền dân chủ Nghị viện Anh. Trên thực tế, Đảng Bảo thủ Anh đã thực sự đề xuất rằng họ sẽ đưa ra một đạo luật để hạn chế quyền giám sát tư pháp.

Ở Úc, mặc dù Tòa án tối cao chủ yếu hoạt động theo mô hình của Anh nhưng ngày càng có nhiều lời kêu gọi để bảo đảm có thêm nhiều thẩm phán Đảng Bảo thủ được bổ nhiệm vào Tòa án tối cao. Tòa án tối cao đôi khi cũng có các thẩm phán hoạt động theo chủ nghĩa tự do rõ ràng như Thẩm phán Michael Kirby và luôn có một dòng chảy chính trị ngấm ngầm chảy xuyên suốt ngành tư pháp.

Ở Israel đã có một cuộc chiến kéo dài rất lâu giữa các thẩm phán theo chủ nghĩa tự do và cơ quan hành pháp về vấn đề xem xét lại tư pháp[xv] vốn được xác định dựa trên cuộc chiến giữa những người theo chủ nghĩa tự do và những người theo chủ nghĩa dân tộc bảo thủ. Cuộc chiến ngày càng trầm trọng theo thời gian. Ở Nam Phi, sau những năm đầu tiên của chủ nghĩa can thiệp, Tòa án Tối cao ngày càng tránh xa việc đối đầu trực tiếp với chính trị. Cũng cần lưu ý rằng việc bổ nhiệm vào Tòa án ngày càng bị chính trị hóa và gây tranh cãi một cách trớ trêu là do quá trình “chủ nghĩa hợp hiến biến đổi”. Chủ nghĩa Hiến pháp Chuyển đổi nhằm mục đích “chuyển đổi” Nam Phi từ chế độ phân biệt chủng tộc sang chế độ dân chủ hiện đại, do đó theo thời gian, Nam Phi bảo đảm rằng phần lớn các thẩm phán phản ánh nguồn gốc xã hội của họ, tức là từ cộng đồng người da đen.

Trên toàn thế giới đã có một cuộc xung đột ngày càng gia tăng giữa những gì được coi là các giá trị “tự do” được toàn cầu hóa và các giá trị của chủ nghĩa dân tộc văn hóa, bất kể chúng ta muốn sử dụng thuật ngữ này theo cách nào. Nội dung tranh luận quan trọng nhất như đã được thuật lại ở trên là luật hiến pháp, văn bản khung cơ bản của quốc gia. Trong khi các thẩm phán tự do hoặc trong một số trường hợp, các thẩm phán muốn kết hợp các giá trị tự do toàn cầu một cách đặc biệt trong khi diễn giải các tập tục và chuẩn mực văn hóa, thì đã có sự phản đối từ những người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa nhấn mạnh vào các giá trị địa phương và bản địa được coi là nền tảng đối với các quốc gia mà hiến pháp quy định và luật vận hành.

Chủ nghĩa dân tộc văn hóa và tư pháp Ấn Độ

Nền tư pháp Ấn Độ, vì những lý do rõ ràng của lịch sử, có nhiều điểm chung với nền tư pháp của Anh hơn là với Mỹ. Do đó, vai trò của ngành tư pháp Ấn Độ và cách ngành tư pháp nhìn nhận bản thân giống với vai trò của Anh hơn là của Mỹ. Ngành tư pháp Ấn Độ tránh xa các cuộc tranh luận chính trị của đảng phái, tuy nhiên, thường bị cáo buộc là hoạt động tư pháp rất giống với Anh, và như vậy chắc chắn không có hệ tư tưởng bảo thủ hay tự do, độc đáo hay tiến bộ nào can thiệp vào Tòa án. Trên thực tế, như TT Arvind đã nhận xét trong bài báo của ông: “Hệ tư tưởng pháp lý, học thuyết pháp lý và các thẩm phán hàng đầu của Anh”, rằng có những thẩm phán tự do có quan điểm dường như thích cách giải thích bằng luật, cho phép nhà nước hành động không bị cản trở, có thể ủng hộ hành động của chính phủ bảo thủ, trong khi có những thẩm phán được coi là bảo thủ áp dụng quan điểm hạn chế việc giải thích quyền lực nhà nước, trong nhiều trường hợp thúc đẩy quyền của các cá nhân chống lại nhà nước.

Do đó, không phải các thẩm phán mà là các phán quyết, có thể được chọn ra như những gợi ý cho cách giải thích Hiến pháp Ấn Độ ủng hộ quan điểm dân tộc chủ nghĩa về văn hóa. Trớ trêu thay, cũng chính các thẩm phán đã đưa ra các phán quyết đã trở thành cột mốc quan trọng trong cách giải thích Hiến pháp theo chủ nghĩa dân tộc về mặt văn hóa, trong các phán quyết khác lại ủng hộ cách giải thích Hiến pháp theo chủ nghĩa tự do.

Có nhiều nhận định có thể phân biệt một người theo chủ nghĩa tự do hoặc một người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa. Một số quan điểm được biết đến, một số khác không được biết đến rộng rãi nhất là khi không ở trong cộng đồng các học giả trực tiếp tham gia vào các vấn đề. Do đó, tầm quan trọng của các bản án đôi khi thậm chí không được thể hiện rõ ràng từ chính bản thân bản án, mà là từ những vấn đề mà bản án đó không đề cập đến. Hai ví dụ điển hình về điều này là trường hợp Ram Sethu[xxii], trong đó tòa án yêu cầu Chính phủ đương thời xem xét khả năng liên kết thay thế dự án Sethusamudram sau phiên điều trần mở rộng, và vụ Abhiram Singh kiện C.D. Commachen (3), trong đó Tòa án Tối cao thực sự đã chọn không giải quyết vấn đề định nghĩa về tư tưởng Hindutva là không liên quan trọng yếu đến vụ án và không mang tính quyết định tới các vấn đề khác.

Đã có nhiều bản án khác được tôn vinh do giải thích hiến pháp theo cách có thể được hiểu là phù hợp với nền văn hóa độc đáo của Ấn Độ. Một số điểm nổi bật nhất được đánh dấu là chỉ số. Tuy nhiên, như đã thảo luận ở trên, các phán quyết của Tòa án Tối cao không phải là con đường một chiều và đã có nhiều phán quyết được cho là thúc đẩy các giá trị tự do và do đó thúc đẩy các giá trị phương Tây đối với luật Hiến pháp. Một số trong những vấn đề chính là lĩnh vực quan tâm của những người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa trong thời gian gần đây cũng được đặt ra và cả những tranh cãi và vấn đề mà họ đã nêu ra.

Phán quyết Hindutva, trong đó Tòa án đưa ra công thức rằng tư tưởng Ấn Độ giáo, Hindutva có thể được coi là Ấn Độ hóa, gần với lập luận của những người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa nhất. Đề xuất này sau đó đã bị một nhóm phản đối trong vụ Abhiram Singh kiện C.D. Commachen, trong đó Tòa án rõ ràng đã chuyển vấn đề này sang một nhóm lớn hơn. Điều này cuối cùng đã được quyết định trong Abhiram Singh (3), mà không đề cập đến vấn đề Hindutva, mà là câu hỏi về phạm vi của Mục 123 của Đạo luật Đại diện cho Nhân dân, 1951.

Vấn đề về các nhóm thiểu số tôn giáo và các quyền đặc biệt được trao cho các nhóm thiểu số tôn giáo theo Hiến pháp và cách giải thích rộng rãi của các Tòa án về các quyền này cũng là một vấn đề gây quan ngại đáng kể trong giới văn hóa dân tộc chủ nghĩa. Tòa án đã giải quyết câu hỏi về các nhóm thiểu số tôn giáo và ai tạo thành một nhóm thiểu số tôn giáo trong Tổ chức TMA Pai kiện Bang Karnataka, trong đó Tòa án đã đi đến kết luận rằng định nghĩa về những người cấu thành một nhóm thiểu số tôn giáo sẽ khác nhau giữa các tiểu bang và mở rộng quyền theo Điều 29 và 30 cho tất cả mọi người bằng cách hiểu các điều khoản là “sự bảo vệ” chứ không phải là một quyền độc quyền. Nguyên tắc này đã được nhắc lại và duy trì trong vụ PA Inamdar kiện Bang Maharashtra. Phán quyết của Bal Patil, trong đó Tòa án phải đưa ra định nghĩa ai là “thiểu số tôn giáo” và Tòa án giải quyết vấn đề này bằng sự hiểu biết riêng về sắc thái về văn hóa và tập quán của người dân cũng như bằng cách phân tích các vấn đề đằng sau khung các điều khoản hiến pháp liên quan đến các nhóm thiểu số tôn giáo, đồng thời giải quyết câu hỏi liệu người Kỳ Na giáo có phải là một nhóm thiểu số tôn giáo hay không. Tuy nhiên, phán quyết trong Vụ án Quyền được giáo dục, một lần nữa quay trở lại logic của các quyền theo Điều 29 và 30 là các quyền của nhóm thiểu số độc quyền được đối xử ở vị trí cao hơn so với các quyền cơ bản khác. Khỏi phải nói, nó đã gây ra sự kinh ngạc trong cộng đồng pháp lý theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa về văn hóa.

Đối với nhiều người, các bản án khác nhau liên quan đến Ram Janmabhoomi cũng biểu thị sức lôi kéo và áp lực của chính trị cũng như những tranh cãi trước Tòa án. Bắt đầu từ phán quyết đầu tiên trong vụ Ismael Faruqui kiện Liên bang Ấn Độ và kết thúc ở vụ Mohammad Sidiq kiện Mahant Suresh Das, vụ án có rất nhiều khúc mắc. Mặc dù một số người theo chủ nghĩa dân tộc về văn hóa có thể không hài lòng với lập luận của Tòa án ở Mohammad Sidiq, nhưng họ ý thức được rằng, phán quyết đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp vốn là nền tảng cho phong trào của những người theo chủ nghĩa dân tộc về văn hóa ở Ấn Độ.

Một số phán quyết nổi bật đã tạo ra nhiều cuộc thảo luận sôi nổi của những người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa là loạt phán quyết về giết mổ bò, xung đột rõ ràng giữa phán quyết chính của Tòa án ở Bang Gujrat kiện Mirzapur Moti Kureshi Kasab Jamat, kết luận rằng việc cấm hoàn toàn việc giết mổ bò là được cho phép, và, làm loãng nguyên tắc trong Akhil Bharat Goseva Sangh (3), cho rằng bản án trong vụ Mirzapur Moti Kureshi Jamat đã không tuyên bố rằng giết mổ bò là vi hiến. Điều đó, cùng với một loạt các phán quyết về việc giải thích các Đạo luật Phòng chống Ngược đãi Động vật, trong đó các vấn đề về đức tin, tầm quan trọng của bò trong văn hóa và các điều khoản của Đạo luật, đã được Tòa án Tối cao giải quyết nhiều lần, đã được Tòa án Tối cao giải quyết với mức độ ưu tiên hàng đầu trong các vấn đề được quan tâm.

Các phán quyết về luật cá nhân cũng là một lĩnh vực quan tâm đối với cộng đồng luật pháp theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa, sự khác biệt về luật cá nhân và yêu cầu về Bộ luật Dân sự thống nhất đã là yêu cầu lâu nay của phong trào chính trị rộng lớn hơn cũng như những người theo chủ nghĩa hiện đại thế tục. Lập luận bắt nguồn từ cả Điều 44 của Hiến pháp cũng như sự cần thiết phải có luật thống nhất cho mọi công dân tương tự như luật hình sự trong nước. Trong đó, phán quyết của Tòa án về tính hợp lệ của Triple Talaq (nói Talaq 3 lần để ly hôn – nd) đã được dự đoán trước. Mặc dù Tòa án trong vụ Shayara Bano kiện Liên bang Ấn Độ, cuối cùng đã hủy bỏ giá trị pháp lý của “Triple Talaq”, tuy nhiên, thực tế là Tòa án đã tránh việc kiểm tra các luật cá nhân, bao gồm cả việc thực hành “Triple Talaq” đối với các quyền cơ bản đã không được chú ý. Vấn đề chuyển đổi mục đích kết hôn cũng nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Thông lệ này, mặc dù không được chấp nhận trong vụ Sarla Mudgal kiện Liên minh Ấn Độ, nhưng đề xuất này đã bị pha loãng đi nhiều trong vụ Lily Thomas kiện Liên minh Ấn Độ. Bất chấp những quan sát ngoan đạo của Tòa án trong vụ John Vallamatom kiện Liên bang Ấn Độ, thật đáng buồn là Điều 44 vẫn là một quy định không áp dụng được trong thực tế.

Quyền chuyển đổi tôn giáo cũng là chủ đề gây nhiều tranh cãi trong cộng đồng pháp lý dân tộc chủ nghĩa văn hóa. Trong khi phán quyết của Linh mục Stainislaus v. Bang M.P., ủng hộ việc hạn chế sử dụng vũ lực hoặc dụ dỗ nhằm mục đích cải đạo, quan điểm đó đã bị giảm bớt bởi các phán quyết tiếp theo của Tòa án trong vụ Shafin Jahan kiện Ashokan K.M., trong đó Tòa án ủng hộ quyền kết hôn theo Điều 21 là quyền được cải đạo, mặc dù có những cáo buộc rõ ràng về các phương pháp không công bằng được sử dụng để cải đạo. Mối quan tâm này cũng dẫn đến mối lo ngại về nỗ lực mở rộng các quyền được trao cho các Bộ tộc theo hiến pháp cho các tôn giáo có nguồn gốc không phải là người Ấn Độ bề ngoài với lý do phân biệt đối xử, và, câu hỏi gây tranh cãi là liệu các thành viên của Bộ lạc có được chuyển đổi thành các tôn giáo phi bộ lạc được quyền duy trì “lợi ích kép” với tư cách là Bộ lạc và nhóm thiểu số tôn giáo hay không.

Một câu hỏi lớn khác đã được tranh luận rất nhiều là khái niệm “chủ nghĩa thế tục”, thực sự là câu hỏi về ý nghĩa của nó trong bối cảnh Ấn Độ. Tòa án ở SR Bommai, thực sự đã tiếp tục tán thành quan niệm về chủ nghĩa thế tục kiểu Mỹ như bức tường giữa Nhà thờ và Nhà nước, chống lại một loạt các tiền lệ hiện có, tuy nhiên trong một khoảng thời gian, Tòa án đã quay trở lại định nghĩa cũ của “Chủ nghĩa thế tục” trong bối cảnh Ấn Độ là “Sarva Dharma Samabhava” hay “khoảng cách bình đẳng với mọi tôn giáo”. Câu hỏi liệu Tòa án có quản lý để đối xử bình đẳng với tất cả các tôn giáo trên thực tế hay không là một câu hỏi đã kích động tâm trí của những người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa kể từ thời điểm từ “Thế tục” được đưa vào Lời nói đầu của Hiến pháp và vẫn là một vấn đề câu hỏi trực tiếp cho đến ngày hôm nay.

Các vấn đề đã được đưa ra quyết định bởi các Phán quyết về “Hiến pháp chuyển đổi (tôn giáo)”, trong đó Tòa án đã sử dụng logic kép của Hiến pháp là một “tài liệu chuyển đổi” và nhu cầu khắc sâu “đạo đức hiến pháp” để:

“108. Khái niệm về chủ nghĩa hợp hiến chuyển đổi cốt lõi là một cam kết, hứa hẹn và khát khao chuyển đổi xã hội Ấn Độ để có thể tiếp thu, bằng văn bản và tinh thần, những lý tưởng về công lý, tự do, bình đẳng và tình huynh đệ như được nêu trong Lời nói đầu của Hiến pháp của chúng ta. Có thể hiểu rõ nhất cụm từ “chủ nghĩa hợp hiến chuyển đổi” bằng cách sử dụng lăng kính thực dụng giúp nhận ra thực tế của thời đại ngày nay. Chuyển đổi như một thuật ngữ hoàn toàn trái ngược với sự trì trệ, thay vào đó, nó biểu thị sự thay đổi và khả năng biến đổi. Do đó, khái niệm về chủ nghĩa hợp hiến chuyển đổi, vốn là một thực tế đối với tất cả các bản Hiến pháp và đặc biệt là đối với Hiến pháp Ấn Độ, trên thực tế, là khả năng của Hiến pháp để thích ứng và chuyển đổi với nhu cầu thay đổi của thời đại.

Chính khả năng chuyển đổi này của Hiến pháp đã mang lại cho nó đặc tính của một văn kiện sống động và hữu cơ. Hiến pháp liên tục định hình cuộc sống của công dân nói riêng và xã hội nói chung. Sự thể hiện của Hiến pháp và sự đánh giá tích cực của các tòa án hiến pháp tạo thành huyết mạch của các xã hội tiến bộ. Hiến pháp sẽ trở thành một bản di chúc cũ và chết nếu không có sự diễn giải năng động, sôi nổi và thực dụng. Các điều khoản hiến pháp phải được hiểu và phát triển theo cách sao cho mục đích thực sự và sự tồn tại của chúng thấm nhuần vào tất cả các bộ phận của xã hội. Đó là lý do tồn tại của Hiến pháp.”

Gây tranh cãi nhất là phán quyết Sabarimala, trong đó thú vị là những lập luận cho rằng hiến pháp là một tài liệu có tính chuyển đổi cho một xã hội tự do phổ quát, và lập luận rằng hiến pháp cần được diễn giải theo văn hóa đều được đưa ra một cách xuất sắc và uyên bác, như một phần của đa số và bất đồng chính kiến. Trên thực tế, chính sự bất đồng chính kiến đặc biệt theo nhiều cách đã trở thành ví dụ điển hình cho thách thức rộng lớn hơn đối với “chủ nghĩa hợp hiến biến đổi” từ quan điểm của “chủ nghĩa hợp hiến văn hóa”:

“481. Khái niệm đạo đức hiến pháp đề cập đến các giá trị đạo đức làm nền tảng cho văn bản Hiến pháp, mang tính hướng dẫn trong việc xác định ý nghĩa thực sự của Hiến pháp và đạt được các mục tiêu dự tính trong đó. Đạo đức hiến pháp trong một xã hội đa nguyên và chính thể thế tục sẽ phản ánh rằng các tín đồ của các giáo phái khác nhau có quyền tự do thực hành đức tin của họ theo các giáo lý của tôn giáo của họ. Nó không liên quan cho dù thực hành là hợp lý hay logic. Các khái niệm về tính hợp lý không thể được viện dẫn trong các vấn đề tôn giáo bởi các tòa án.

Các tín đồ của giáo phái này, hoặc giáo phái khác, tùy từng trường hợp, đệ trình rằng những người thờ phụng vị thần này trong Đền Sabarimala thậm chí với tư cách cá nhân có quyền thực hành và tuyên xưng tôn giáo của họ theo Điều 25(1) phù hợp với các nguyên lý của đức tin của họ , được bảo vệ như một quyền cơ bản.

Bình đẳng và không phân biệt đối xử chắc chắn là một khía cạnh của đạo đức hiến pháp. Tuy nhiên, không thể xem khái niệm bình đẳng và không phân biệt đối xử trong các vấn đề tôn giáo một cách tách biệt. Theo kế hoạch hiến pháp của chúng tôi, cần phải có sự cân bằng giữa một bên là các nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử, và mặt khác, bảo vệ các quyền tự do đáng trân trọng về tín ngưỡng và thờ cúng được đảm bảo bởi Điều 25 và 26 cho những người thuộc mọi thành phần tôn giáo trong một chính thể thế tục. Đạo đức hiến định đòi hỏi sự hài hòa hoặc cân bằng của tất cả các quyền đó, để đảm bảo rằng niềm tin tôn giáo của không ai bị xóa bỏ hoặc làm suy yếu.”

Giải thích Hiến pháp qua lăng kính Văn hóa Dân tộc

Rõ ràng là cách giải thích hiến pháp theo chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa văn hóa đòi hỏi phải thừa nhận hai điều rất quan trọng (a) văn hóa của Ấn Độ và nền tảng văn minh mà văn hóa đó tồn tại, và (b) tính độc đáo của Ấn Độ với tư cách là một quốc gia. Nói cách khác, hiến pháp cần được giải thích trong bối cảnh lịch sử, chính trị, xã hội và văn hóa chứ không dựa trên các giá trị phổ quát bao gồm cách giải thích tự do hay quyền con người.

Do đó, cách giải thích Hiến pháp theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa có hai phần, phần thứ nhất thừa nhận rằng việc hình thành Hiến pháp là sản phẩm của lịch sử và của các diễn biến chính trị trong thời kỳ diễn ra phong trào độc lập. Các quyết định quan trọng ra và các thỏa hiệp chính trị đã được đưa ra vào thời điểm diễn ra phong trào, và trong quá trình xây dựng Hiến pháp tại Quốc hội Lập hiến, vốn là sản phẩm của phong trào và các cuộc tranh luận phát sinh do phong trào. Một cách giải thích theo chủ nghĩa dân tộc về văn hóa nhất quán sẽ ủng hộ những thỏa hiệp này. Lấy ba ví dụ, cuộc tranh luận đầu tiên liên quan đến tiếng Hindi là ngôn ngữ chính thức, vị trí của các ngôn ngữ khu vực khác và vị trí của ngôn ngữ tiếng Anh theo hiến pháp được gói gọn trong Điều 343 đến Điều 349. Chính sách về ngôn ngữ theo Hiến pháp được nêu rõ trong các điều khoản nói trên. Tòa án nên tôn trọng sự thỏa hiệp. Thứ hai là câu hỏi ai Hiến pháp nhằm phục vụ đẳng cấp xã hội nào. Không cần phải nói thêm rằng cách giải thích theo chủ nghĩa dân tộc về văn hóa mong đợi nó nhất quán với tinh thần và cách diễn đạt của hiệp ước Rajah Moonje và Poona, vốn đã hình thành nguồn gốc của việc bảo lưu trật tự đẳng cấp như được quy định trong Hiến pháp. Thứ ba là ý tưởng về Quyền của các nhóm thiểu số tôn giáo như được liệt kê trong Hiến pháp ở các điều khoản của Điều 29 và 30. Cách giải thích theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa sẽ phù hợp hơn với cách hiểu chính trị làm cơ sở cho việc đóng khung các điều khoản trong Hiến pháp sau khi phân chia Ấn Độ và Pakistan và thành lập nền Cộng hòa. Có rất nhiều vấn đề khác nhau bao gồm vấn đề về bản chất của Lời nói đầu ban đầu của Hiến pháp, cũng như cơ sở để hiểu về vai trò của cơ quan tư pháp theo Hiến pháp, đây cũng là những vấn đề tranh luận liên tục trong pháp lý theo chủ nghĩa dân tộc về văn hóa.

Phần này rất gần với cách giải thích theo chủ nghĩa nguyên bản vốn được các luật sư bảo thủ Mỹ rất ưa chuộng để hiểu Hiến pháp Ấn Độ, tuy nhiên, theo nhiều cách, điều này được kết hợp độc đáo ở Ấn Độ, với cách tiếp cận để hiểu Hiến pháp trong bối cảnh của nền văn minh riêng của Ấn Độ. Nguồn gốc của chuỗi lập luận này bắt nguồn từ cuộc xung đột liên tục giữa những người theo chủ nghĩa truyền thống và những người hiện đại làm nền tảng cho quyền tự do đi lại của Ấn Độ và vô số nỗ lực của những người theo chủ nghĩa truyền thống và trí thức bản địa nhằm đưa ra một khuôn khổ thay thế cho khuôn khổ pháp lý hiện đại về Quản trị trong nước. Việc không thể đưa các giá trị “văn minh” như vậy trở thành nghĩa vụ ràng buộc theo Hiến pháp, đã dẫn đến sự phê phán đòi hỏi một cách giải thích phù hợp hơn với các giá trị của Ấn Độ/Bhartiya. Một lần nữa, có rất nhiều điểm tranh cãi nhưng một số điểm quan trọng hơn được nhấn mạnh ở đây để làm ví dụ. Nỗ lực đọc các giá trị của Ấn Độ/Bhartiya, bao gồm các điều khoản nổi tiếng của Điều 39 (a) và (b), 40, 43, 47 và 48, được biết đến nhiều hơn với tên gọi các điều khoản của những ngươi theo trường phái Gandhi, nhưng thực ra là những điều khoản có tiếng vang sâu sắc với mối quan tâm của những người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa. Một cách khác là yêu cầu giải thích các nghĩa vụ cơ bản đối với việc thực thi các quyền trong Hiến pháp. Điều này có thể ở dạng Điều 51A cũng như các nghĩa vụ công dân khác được hiểu là cần thiết để thực hiện các quyền của một người với tư cách là công dân của quốc gia này. Thứ ba là giới hạn quyền tự do ngôn luận sao cho nó không làm tổn hại đến sự nhạy cảm về tôn giáo và văn hóa của người khác, theo cách phù hợp với ngôn từ được chấp nhận trong xã hội Ấn Độ và phù hợp với tinh thần thực tế của Điều 19 bao gồm cả những hạn chế trong đó. Thứ tư là về nỗ lực liên tục như một phần của Điều 26 của Hiến pháp nhằm cho phép các nhóm tôn giáo có quyền tự do rộng rãi nhất trong việc điều hành và vận hành các cơ sở thờ tự và các phương pháp thờ cúng, chỉ bị giới hạn bởi lệnh cụ thể về việc mở các địa điểm thờ cúng cho mọi tầng lớp của người theo đạo Hindu theo Điều 25. Cuối cùng, cần liên tục nỗ lực tìm hiểu các chuẩn mực văn hóa và tôn giáo trong bối cảnh chúng được thực hành theo hướng tự do phổ quát, và không bị thử nghiệm theo các chuẩn mực ứng xử của nước ngoài hoặc phương Tây. Nói cách khác, để có một cách giải thích Hiến pháp theo luật pháp, cách giải thích Hiến pháp một cách toàn diện và không bị bắt làm con tin chỉ cho những lời hoa mỹ về nhân quyền, đó là đặc điểm nổi bật của các phương pháp giải thích hiến pháp của phương Tây/Châu Âu/tự do/chủ nghĩa tự do.

Mặc dù điều này thoạt nhìn có vẻ dễ dàng, nhưng điều này không dễ đạt được trong thời đại toàn cầu hóa ngày càng gia tăng và những luận điệu toàn cầu hóa về các giá trị và chuẩn mực phổ quát, nhất là trong lĩnh vực nhân quyền.

Điều này càng trở thành một vấn đề ngày càng nhạy cảm liên quan đến bình đẳng giới và xã hội. Lập luận là, nếu nền văn hóa hiện tại là thứ bậc và sự thống trị của các nhóm cụ thể, thì việc diễn giải hiến pháp về mặt văn hóa sẽ chỉ củng cố thêm những bất bình đẳng vốn có trong hiến pháp. Lập luận này được đưa ra trước vụ việc Indra Sawhney, tuy nhiên, Tòa án Tối cao đã hành động xoa dịu tình hình một cách hiệu quả bằng cách dựa vào các quan niệm của người Ấn Độ về xã hội dựa trên các ý tưởng rộng về công bằng. Không còn nghi ngờ gì nữa, giải pháp không phải là có giải pháp chung có lợi cho tất cả mọi người, nhưng nó đã tạo ra một hợp âm rất khác với phán quyết Sabrimala, trong đó trả lời vấn đề bình đẳng, Tòa án đã cố gắng đo lường các chuẩn mực văn hóa Ấn Độ hiện có trên toàn cầu qua thông số tự do thể hiện trong quan niệm về “chủ nghĩa hợp hiến biến đổi”.

Mối quan tâm lớn khác rõ ràng là của các nhóm thiểu số tôn giáo mà quyền của họ là chủ đề gây nhiều tranh cãi kể từ thời điểm xây dựng hiến pháp. Điều này là do Hiến pháp, ngay cả khi đối mặt với sự phân chia vốn được thừa nhận là nằm trên “mặt bằng chung”, đã chọn bảo vệ các quyền của thiểu số tôn giáo. Những quyền này trong một khoảng thời gian đã làm nảy sinh nhiều góc cạnh khác nhau trong quá trình thực hiện trên thực tế, điều này đã làm dấy lên mối lo ngại về “sự phân biệt đối xử ngược”. Các cách tiếp cận trái ngược nhau của Tòa án Tối cao trong vụ TMA Pai Foundation kiện Bang Karnataka, và Vụ án Quyền được Giáo dục đã giải thích các quyền giống nhau là một chỉ số cho thấy điều mà luật sư theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa thấy có vấn đề. Đầu tiên, Tòa án Tối cao cho rằng các quyền được áp dụng cho các nhóm thiểu số tôn giáo theo Điều 30 có thể được áp dụng cho tất cả mọi người, trong khi ở phần thứ hai, Tòa án Tối cao cho rằng các quyền của các nhóm thiểu số tôn giáo trong Điều 30 thực sự là một bậc cao hơn các quyền cơ bản khác của Hiến pháp.

Tương lai của Chủ nghĩa Dân tộc Văn hóa trong Chủ nghĩa Hiến pháp Ấn Độ

Như chúng ta đã thảo luận trong phần trước của bài báo, xung đột giữa các cách giải thích pháp luật theo chủ nghĩa dân tộc theo chủ nghĩa dân tộc bảo thủ/theo chủ nghĩa ngoại lệ/theo chủ nghĩa văn hóa trên khắp thế giới đang ngày càng trở nên xung đột với các ý tưởng của các ý tưởng về chủ nghĩa tự do/chủ nghĩa tự do theo hướng phổ quát cho đến nay vẫn chưa được kiểm chứng đặc biệt sau khi kết thúc của Chiến tranh Lạnh.

Trong giới học thuật pháp lý Ấn Độ, sự phản đối chủ nghĩa tự do pháp lý chủ yếu xuất phát từ những người theo chủ nghĩa tự do pháp lý, được giảng dạy rộng rãi trong các trường luật phương Tây và được viết trong các chuyên luận pháp lý về luật. Các cách đọc theo chủ nghĩa dân tộc theo chủ nghĩa bảo thủ/Chủ nghĩa ngoại lệ/Chủ nghĩa văn hóa đối với hiến pháp hoặc bất kỳ luật nào, không được dạy trong các Trường Luật trong nước hoặc bên ngoài, phần lớn là do những cách giải thích này không được coi là đủ hiện đại. Điều này dẫn đến một tình huống đặc biệt trong đó các Tòa án Ấn Độ sẽ áp dụng các giải pháp của người Ấn Độ bản địa cho các câu hỏi pháp lý của Ấn Độ, đồng thời đóng khung luận điệu theo tư duy tự do của phương Tây.

Điều này dẫn đến những phức tạp nghiêm trọng, như chúng ta biết, bao gồm nhu cầu định nghĩa những từ hoàn toàn xa lạ với xã hội Ấn Độ theo thuật ngữ của người Ấn Độ, với nghĩa rất khác so với nghĩa ban đầu của nó. Ví dụ thường được trích dẫn về việc định nghĩa “Chủ nghĩa thế tục” là “Sarva Dharma Samabhava”, và Chủ nghĩa xã hội như một thứ gì đó giống với Chủ nghĩa xã hội theo trường phái Gandhi. Có rất nhiều ví dụ khác. Nổi tiếng nhất trong số đó là các phán quyết theo chủ nghĩa hợp hiến mang tính biến đổi, trong đó Tòa án Tối cao đã cố gắng hình thành một hệ thống luật học để tạo ra khái niệm mới từ cách hiểu phổ quát sử dụng Hiến pháp như một công cụ.

Tuy nhiên, ngày càng có nhiều tài liệu trên khắp thế giới thúc đẩy cách giải thích luật có tính đến văn hóa của địa điểm và lịch sử độc đáo mà luật bắt nguồn chứ không dựa trên các giá trị được hiểu là phổ quát. Lý thuyết cho rằng công việc của một diễn giải pháp luật là tạo điều kiện thuận lợi cho các giải pháp pháp lý cho các vấn đề bản địa chứ không phải để giải quyết các vấn đề phổ quát. Nói cách khác, luật học của các xã hội như Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Vương quốc Anh cũng như Nam Phi và Canada thực sự là phù hợp với những nước đó và không được phổ cập và áp dụng cho các xã hội cách xa họ như Ấn Độ. Không còn nghi ngờ gì nữa, các thông lệ tốt ở mọi nơi trên thế giới đều có thể gợi ý các giải pháp khả thi giống như Hiến pháp Ấn Độ đã vay mượn các công cụ của chủ nghĩa hợp hiến từ các khu vực khác nhau trên thế giới, tuy nhiên, cũng giống như Hiến pháp Ấn Độ, những công cụ và giải pháp đó phải được bản địa hóa triệt để trước khi chúng được áp dụng. Vấn đề là đó không phải là trường hợp luật học phương Tây/chủ nghĩa phổ quát theo định hướng tự do, vốn khác xa với văn hóa và cuộc sống hàng ngày của người dân Ấn Độ.

Chủ nghĩa dân tộc văn hóa (dưới vô số biểu hiện và tên gọi khác nhau) với tư cách là một phương pháp diễn giải Hiến pháp chắc chắn cho thấy bản thân nó chính xác và phù hợp hơn rất nhiều trong thời đại ngày nay so với bất kỳ phương pháp luận phổ quát nào. Lý do là vì nó có mối liên hệ với cuộc sống của mọi người và khả năng nó được điều chỉnh cho phù hợp với các vấn đề thực tế bằng ngôn ngữ và ngữ cảnh mà người bình thường có thể hiểu được. “Lời hùng biện vĩ đại” về luật và quyền phổ quát ít gây được tiếng vang trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Để việc đọc Hiến pháp trở nên thực sự dân chủ, nó phải phản ánh cách thức của những người dân chịu tác động của luật và phải có thể dịch được thành một thành ngữ dễ hiểu đối với họ. Mọi cách đọc Hiến pháp chính xác đều phải xuất phát từ năng lực trí tuệ của những người sử dụng nó, hoặc ít nhất phải được làm cho phù hợp với mục đích sử dụng của họ. Hơn nữa, bất kỳ cách giải thích nào về Hiến pháp cũng nhất thiết phải phản ánh những thỏa hiệp chính trị và cách hiểu về các chuẩn mực vốn là kết quả của quá trình phát triển lịch sử trong đời sống của người dân và xã hội mà Hiến pháp điều chỉnh. Lịch sử và những hiểu biết về chính trị của các xã hội không thể được phổ cập hóa và áp dụng cho các xã hội khác với nền văn hóa, lịch sử và chính trị hoàn toàn khác, và các chuẩn mực chi phối chúng cũng không thể được áp dụng cho các xã hội khác nhau về cơ bản.

Sự khác biệt này so với quá khứ rõ ràng đã dẫn đến xung đột gia tăng giữa những người giải thích Hiến pháp, và thậm chí là yêu cầu phải tiết lộ niềm tin chính trị của các thẩm phán theo phong cách Mỹ trước khi họ được bổ nhiệm vào ngành tư pháp. Bất kể sự phù phiếm rõ ràng của một yêu cầu như vậy, điều nó chỉ ra là ngày càng có nhiều sự khó chịu trong giới tinh hoa hiện có của giới học thuật pháp lý Ấn Độ và các nhà hoạt động, những người có mối liên hệ với tư duy pháp lý phương Tây (đầu tiên là người Anh và sau đó là người Mỹ) với những người theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa diễn giải và bản địa hóa các diễn giải hiến pháp.

Sự chỉ trích lớn nhất đối với trường phái pháp lý dân tộc chủ nghĩa văn hóa cho đến nay bởi những người theo chủ nghĩa phổ quát, bao gồm những người theo chủ nghĩa tự do, là chủ nghĩa dân tộc văn hóa hợp pháp không phải là một triết lý pháp lý chặt chẽ. Bài báo hiện tại lập luận rằng đúng như vậy, và cố gắng đưa ra một khuôn khổ dựa trên đó có thể tiếp tục thảo luận vấn đề này. Nó hy vọng cũng sẽ khuyến khích các nhà tư tưởng pháp lý dân tộc chủ nghĩa văn hóa khác xây dựng hoặc đưa ra cách giải thích của riêng họ về chủ đề này. Không còn nghi ngờ gì nữa, các tổ chức tư vấn như cơ quan tư vấn India Foundation, Quỹ Chính sách Ấn Độ và Tập thể Ấn Độ đã đưa ra các bài báo để cố gắng nói rõ quan điểm và các tổ chức như Giáo xứ Akhil Bhartiya Adhivakta đã nhiều lần làm việc để đưa ra các giải pháp đương thời dựa trên luật học theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa. Bài báo này hy vọng sẽ bắt đầu cuộc thảo luận đó, đó là thảo luận chuyện về pháp lý quan trọng nhất trong thời đại của chúng ta, khi ngày càng có nhiều địa phương ở Ấn Độ cũng như trên toàn thế giới đang ngày càng xung đột, và luật pháp và hiến pháp đã trở thành vấn đề lớn nhất và khu vực nhạy cảm nhất cho đấu trường này.

Tác giả: Vikramjit Banerjee, Luật sư cấp cao, Tòa án tối cao Ấn Độ

Nguồn và xem danh mục tài liệu tham khảo tại: https://indiafoundation.in/articles-and-commentaries/cultural-nationalism-and-the-constitution/

 

Nguồn:

Cùng chuyên mục