Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Vai trò của Ấn Độ trong an ninh khu vực, hàm ý chính sách đối với Việt Nam

Vai trò của Ấn Độ trong an ninh khu vực, hàm ý chính sách đối với Việt Nam

Trong vài thập kỷ qua, Ấn Độ và Việt Nam đã củng cố mối quan hệ thông qua các cam kết song phương, được bổ sung bởi các cơ chế đa phương do Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) dẫn đầu, như Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN, và Hợp tác Sông Mekong–Sông Hằng (MGC).

04:00 01-10-2023 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Dựa trên mối quan hệ bền chặt truyền thống, Ấn Độ và Việt Nam đã mở rộng và tăng cường liên kết chiến lược và quốc phòng trong những năm gần đây, điều này được thể hiện trong các hoạt động huấn luyện chung, diễn tập quân sự và các hạn mức tín dụng quốc phòng do Ấn Độ cung cấp. Từ những năm 1990, đặc biệt là trong thập kỷ qua, cả Ấn Độ và Việt Nam đã thực hiện những điều chỉnh chiến lược nhằm nâng cao quan hệ song phương với các quốc gia có cùng chí hướng, mang lại những điểm chung mới trong tầm nhìn và chính sách chính trị của hai nước. Giống như Ấn Độ, Việt Nam cũng đang cố gắng đưa chương trình nghị sự đa phương và đa chiều về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trở thành xu hướng chủ đạo trong hoạch định chính sách đối ngoại, được tạo điều kiện thuận lợi nhờ mối quan hệ nồng ấm hơn với Nhật Bản và Mỹ. Khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Việt Nam cũng đồng bộ với Tầm nhìn của ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nó cũng phù hợp với chính sách lâu dài của Việt Nam về “ba không”, được mở rộng thành “bốn không” trong Sách Trắng Quốc phòng 2019. Trong khi những diễn biến gần đây ở Biển Đông đã làm trầm trọng thêm mối lo ngại ngày càng tăng của Việt Nam đối với Trung Quốc, khi xem xét các mối liên kết thương mại và sự phụ thuộc của nước này vào Trung Quốc (và Nga), rõ ràng là Việt Nam vẫn không thể bỏ các mối liên kết nhiều tầng lớp với Trung Quốc và tham gia sáng kiến “Quad mở rộng” được coi là một liên minh dân chủ công khai chống Trung Quốc. Do đó, quan hệ Ấn Độ-Việt Nam phải dựa trên nền tảng song phương cùng với các cơ chế liên kết với ASEAN, MGC và cấu trúc Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong khi cố gắng phát triển các hành động phối hợp thông qua hợp tác sâu rộng hơn với Nhật Bản và Mỹ. Nói tóm lại, bất kỳ sáng kiến nào nhằm đưa Việt Nam vào cơ chế Quad mở rộng mà không phát triển đầy đủ sức mạnh tổng hợp với từng quốc gia sẽ không mang lại kết quả mong muốn. Bài viết này lập luận rằng, quan hệ Ấn Độ-Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều nhất nếu gắn trụ cột quan hệ song phương của họ với các cơ chế đa phương bao trùm lấy ASEAN và Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương làm trung tâm, đồng thời từng bước thu hút sự tham gia của Mỹ, Nhật Bản và các đối tác tiềm năng khác trong các khuôn khổ phù hợp.

 

Giới thiệu

Quan hệ Ấn Độ-Việt Nam bắt nguồn sâu xa trong lịch sử, có niên đại hơn hai thiên niên kỷ. Bắt đầu từ Vương quốc Champa, thậm chí có thể sớm hơn, qua các giai đoạn thuộc địa, hậu thuộc địa, cho đến chính sách Hành động hướng Đông, Chiến tranh Lạnh và sau Chiến tranh Lạnh, những làn sóng can dự này của Ấn Độ với Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác đã đạt được một số dấu mốc quan trọng. trong lịch sử (Muni & Mishra, 2019). Trong thời hiện đại, Ấn Độ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1972. Trước đó, Ấn Độ có quan hệ cấp Lãnh sự quán với miền Bắc cũng như miền Nam Việt Nam.

Sự ủng hộ vững chắc của Ấn Độ đối với Việt Nam và sức mạnh của quan hệ song phương Ấn Độ-Việt Nam được thể hiện qua sự hỗ trợ của nước này đối với Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) có sự tham gia của Mỹ. Ấn Độ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình hòa bình ở Việt Nam. Vai trò của Ấn Độ với tư cách là Chủ tịch Ủy ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế (ICSC), được thành lập theo Hiệp định Geneva năm 1954, rất có ý nghĩa (Muni & Mishra, 2019). Một trong những giai đoạn nổi tiếng và được nhớ đến nhiều nhất trong quan hệ Ấn Độ – Việt Nam là từ năm 1979 khi Trung Quốc tấn công Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ khi đó là Atal Bihari Vajpayee, lúc đó đang ở thăm Trung Quốc, đã cắt ngắn chuyến thăm để bày tỏ tình đoàn kết với Việt Nam và chống lại hành động xâm lược của Trung Quốc. Sự hỗ trợ của Ấn Độ đối với Việt Nam trong cuộc xung đột Campuchia (1978) đã khiến nước này phải trả giá đắt—làm trì hoãn cam kết của New Delhi với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, những năm Chiến tranh Lạnh là minh chứng cho mối quan hệ bền chặt giữa Ấn Độ và Việt Nam, mối quan hệ này đã tăng thêm sức mạnh từ khi Ấn Độ đưa ra chính sách Hướng Đông vào năm 1992, chính sách này đã được sửa đổi và nâng cấp thành chính sách Hành động hướng Đông vào năm 2014.

Mối quan hệ Ấn Độ-Việt Nam tăng cường hơn nữa khi Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7 năm 1995. Ấn Độ trở thành Đối tác Đối thoại theo Ngành của ASEAN vào năm 1992 và được nâng lên thành Đối tác Đối thoại Toàn diện vào tháng 12 năm 1995. ASEAN và các cơ chế liên kết đã đưa Ấn Độ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn khi họ đã cố gắng định vị các mối quan hệ trong bối cảnh Đông Nam Á hậu Chiến tranh Lạnh rộng lớn hơn và trong mối quan hệ với những thực tế đang thay đổi của môi trường chiến lược khu vực.

Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM +), Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) và hội nghị thượng đỉnh ASEAN+1 có sự tham gia của Ấn Độ và 10 quốc gia ASEAN, tất cả đã tạo động lực rất cần thiết cho quan hệ Ấn Độ-Việt Nam. Trong những năm qua, Sáng kiến Sông Mekong–Sông Hằng của chính Ấn Độ, cùng với Hội nghị Á-Âu (ASEM) và Chiến lược Hợp tác Kinh tế Ayeyawady–Chao Phraya–Mekong gần đây đã cung cấp các nền tảng đa phương tiểu vùng, khu vực và liên khu vực quan trọng cho hai nước trong đưa quan hệ lên một tầm cao mới. Trong khi hợp phần song phương đang phát triển mạnh mẽ, Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã mở ra những con đường mới để hai bên hợp tác và tham gia vào một nền tảng rộng lớn hơn.

 

Ý thức về các ưu tiên và mối quan tâm về an ninh khu vực của Việt Nam

An ninh của Việt Nam gắn liền với thế cân bằng chiến lược Đông Nam Á không chỉ liên quan đến các nước thành viên ASEAN mà còn cả Trung Quốc, Mỹ và các bên liên quan quan trọng khác trong khu vực bao gồm cả Ấn Độ. Đối với Việt Nam, gia nhập ASEAN là một sự kiện mang tính bước ngoặt. Có thể cho rằng, từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực hết mình để xây dựng hình ảnh thành viên có trách nhiệm, không đi chệch khỏi các nguyên tắc của ASEAN và cũng sử dụng nền tảng đa phương để giải quyết các tranh chấp. Ngay cả đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông và mối đe dọa từ Trung Quốc bắt nguồn từ tranh chấp đang diễn ra và sự thù địch kéo dài do biên giới gây ra, Việt Nam đã thận trọng bằng cách tuân thủ các quy tắc của ASEAN. Việt Nam là một bên ký kết Tuyên bố ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông ký ngày 17 tháng 10 năm 2012 (ASEAN, 2012). Việt Nam, cùng với các nước thành viên ASEAN khác, đã cố gắng đàm phán về bộ quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc trên Biển Đông, mặc dù không thành công.

Việt Nam lưu tâm đến thực tế là an ninh kinh tế và thịnh vượng gắn liền với Trung Quốc. Với kim ngạch thương mại 133 tỷ USD vào năm 2020, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Đây cũng là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Trung Quốc (VN Express, 2021). Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc phức tạp hơn nhiều so với vẻ ngoài. Trung Quốc và Việt Nam có một số điểm tương đồng và lịch sử chia sẻ mạnh mẽ. “Mặc dù Việt Nam và Trung Quốc đã tranh chấp Biển Đông trong nhiều năm, nhưng Trung Quốc vẫn là nguồn cung cấp nguyên liệu và thiết bị lớn nhất cho ngành sản xuất đang phát triển mạnh của Việt Nam” (Khanh, 2021). Việt Nam đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc cũng như từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung (South China Morning Post, 2019).

Điều đó nói rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Việt Nam, Trung Quốc là nguồn đe dọa an ninh quốc gia lớn nhất từ bên ngoài. Lưu ý đến sự khác biệt về sức mạnh, Việt Nam có chính sách phòng thủ ở Biển Đông và phản ứng ở mức có thể trái ngược với thế chủ động tấn công của phía Trung Quốc (Hung, 2016). Việc quan sát cẩn thận chính sách đối ngoại của Việt Nam cho thấy rõ ràng rằng, họ không muốn dấn thân vào cuộc đối đầu toàn diện với Trung Quốc. Không giống như Philippines đã đệ đơn kiện Trung Quốc lên Tòa án Công lý Quốc tế về vấn đề Biển Đông, Việt Nam muốn duy trì hiện trạng. Thay vì leo thang với Trung Quốc, Việt Nam đã cố gắng giải quyết sự xâm lược của Trung Quốc thông qua chiến lược ba mũi nhọn: đáp ứng các lợi ích an ninh của Trung Quốc, xây dựng năng lực tự vệ và tìm kiếm sự hỗ trợ của khu vực và quốc tế (Hung, 2016).

Mối quan hệ trong đảng giữa Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có truyền thống bền chặt. Mối liên kết một phần và giờ đây là sự phụ thuộc thương mại vào Trung Quốc là một trong những lý do chính khiến Việt Nam không công khai theo đuổi bất kỳ chính sách nào gây nguy hiểm trực tiếp đến quan hệ với Trung Quốc mặc dù đang có tranh chấp lãnh thổ tích cực ở Biển Đông. Tránh va chạm trực diện với Trung Quốc là phong cách chính sách đối ngoại đặc trưng của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Trong vài chục năm qua, Việt Nam cũng đi theo khuôn mẫu đó.

Trong bối cảnh đỉnh điểm của đại dịch COVID-19, tình hình Biển Đông căng thẳng và các cuộc họp Quad mở rộng đang diễn ra, v.v., ông Tập Cận Bình với tư cách là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ đã gửi điện mừng tới Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng.      

Về việc ông được bầu làm Tổng bí thư ĐCSVN, nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường liên lạc chiến lược song phương và thúc đẩy tình hữu nghị truyền thống của các quốc gia…(năm 2020) ông Tập Cận Bình đã nói chuyện với ông Nguyễn Phú Trọng hai lần qua điện thoại và ông cũng gửi tin nhắn bày tỏ sự cảm thông với ông Nguyễn Phú Trọng về sự ra đi của ông Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Trung ương Đảng, tháng 8/2020 (China Daily, 2021).

Rõ ràng, cả Trung Quốc và Việt Nam đều hiểu sự thôi thúc của việc trở thành láng giềng và không thể bỏ qua tầm quan trọng của việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp bất chấp những khó khăn. Amer (2014) tóm tắt bản chất của mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam như sau:

Mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc có tầm quan trọng tối cao đối với sự phát triển và an ninh của nước này. Mặc dù nhiều sự chú ý từ bên ngoài tập trung vào các tranh chấp giữa hai nước ở Biển Đông, nhưng mối quan hệ này rộng lớn và đa diện hơn nhiều so với chỉ những tranh chấp này. Sự tương tác lịch sử lâu dài giữa hai quốc gia là một điểm tham chiếu cho những người đề cao thời gian hợp tác lâu dài cũng như cho những người tập trung vào các giai đoạn kiểm soát và tấn công của Trung Quốc đối với Việt Nam.

Amer (2014) cũng đưa ra tầm quan trọng thích hợp cho các liên kết giữa các bên bằng cách nêu bật những điều sau:

Mối liên hệ chặt chẽ về văn hóa và chính trị cả trong lịch sử và thời hiện đại thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vun đắp mối quan hệ bền chặt hơn giữa hai nước. Sự phức tạp của mối quan hệ này có thể được hình thành như sau đối với Việt Nam: Trung Quốc là đối tác hợp tác chính của Việt Nam, đồng thời cũng là thách thức địa chiến lược lớn của Việt Nam.

Việt Nam có quan hệ chín muồi với Ấn Độ, Nga và Trung Quốc. Để đối phó với các tình huống khó khăn, họ sẽ tiếp tục sử dụng lá chắn ASEAN, được củng cố hơn nữa bằng việc tận dụng khái niệm khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và kiểm tra khả năng phục hồi trong khi liên tục theo dõi từ bên ngoài tiến trình mà Đối thoại An ninh Tứ giác (Quad) đạt được trong việc đối phó với Trung Quốc. Với vị trí chiến lược của Việt Nam ở Đông Á và chính sách đối ngoại độc lập quyết liệt, không còn nghi ngờ gì nữa, Việt Nam là một nhà lãnh đạo ở Đông Nam Á và là một trục xoay của nền chính trị cường quốc Đông Á (Mohan, 2007). Việt Nam có vị thế rất tốt trong các động lực địa chính trị rộng lớn hơn và các quốc gia như Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ sẽ được hưởng lợi nhiều từ việc hợp tác với Việt Nam và ngược lại.

 

Chính sách bốn không của Việt Nam

Một trong những đặc điểm sâu sắc và lâu dài nhất trong tầm nhìn chiến lược và chính sách quốc phòng của Việt Nam là cam kết thực hiện chính sách ba không. Chính sách quy định như sau (Bộ Quốc phòng [Sách trắng], 2019):

1. Việt Nam sẽ không tham gialiên minh quân sự;

2. Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống nước khác;

3. Không liên kết với nước này để chống lại nước khác.

Sách Trắng Quốc phòng 2019 bổ sung điều KHÔNG thứ tư---rằng Việt Nam sẽ không bao giờ sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Bằng cách thêm vào chữ Không thứ tư, chính phủ Việt Nam cố gắng làm nổi bật bản chất hòa bình và phòng thủ của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bộ Quốc phòng (Sách trắng), 2019 lưu ý như sau:

Việt Nam nhất quán chủ trương không tham gia liên minh quân sự, đứng về phía nước này chống lại nước khác, không cho nước khác đặt căn cứ quân sự, không sử dụng lãnh thổ để tiến hành hoạt động quân sự chống nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Việt Nam cũng đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước nhằm nâng cao năng lực quốc phòng, giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, Việt Nam xem xét phát triển quan hệ quốc phòng, quân sự với các nước cần thiết, phù hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi và lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.

Từ những điều trên, rõ ràng là Việt Nam không muốn sớm bị thúc ép tham gia ‘Quad mở rộng’ hoặc cơ chế hợp tác chiến lược quân sự ngoài ASEAN, và chọn quan hệ song phương trong việc giải quyết các điểm yếu về quốc phòng, an ninh và chiến lược. Việc nâng cao quan hệ với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ là minh chứng cho điều này. Ngay cả đối với mối đe dọa từ Trung Quốc, vốn là vấn đề gây chú ý và tranh luận quốc tế, lập trường của Việt Nam là giải quyết vấn đề này một cách song phương và với sự trợ giúp của các cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Ngoài ra, Việt Nam đã thể hiện sự quan tâm đến các thỏa thuận và hỗ trợ không chính thức do Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ đưa ra. Nhiều người tin rằng ‘từ khi Liên Xô từ bỏ liên minh với Việt Nam để hàn gắn quan hệ với Trung Quốc vào năm 1986, Hà Nội đã nhất quán trong nhiều thập kỷ để tránh lặp lại sai lầm liên kết với một cường quốc chống lại một cường quốc khác’ (Grossman, 2020).

Những điều sau đây làm rõ hơn Việt Nam mong muốn xử lý mối quan hệ với Trung Quốc cẩn thận như thế nào. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam (Bộ Quốc phòng [Sách Trắng], 2019) nêu rõ như sau:

Những bất đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc về chủ quyền ở Biển Đông là tồn tại lịch sử, cần được giải quyết thận trọng, tránh tác động xấu đến hòa bình chung, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển giữa hai nước. Việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, liên quan đến nhiều quốc gia và nhiều bên. Hai nước cần tiếp tục đàm phán, hiệp thương tìm giải pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong khi chờ đợi một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc cần nỗ lực hơn nữa để duy trì ổn định ở Biển Đông, tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 mà hai nước cùng tham gia ký kết, nghiêm túc thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông và phấn đấu đạt được Tuyên bố chung về ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc.

Rõ ràng, Trung Quốc chiếm một vị trí quan trọng trong tính toán an ninh của Việt Nam như sẽ được phân tích sâu hơn trong phần sau.

 

Mối quan tâm đối với Trung Quốc trong bài toán an ninh khu vực của Việt Nam

Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc phức tạp và đa tầng hơn nhiều so với vẻ ngoài. Trên thực địa, những cân nhắc về khu vực và địa chính trị, các tư thế quyết đoán của Trung Quốc và vấn đề Biển Đông đã tạo ra một yếu tố thách thức trong thế cân bằng Việt Nam-Trung Quốc. Trung Quốc và Việt Nam có yêu sách chồng lấn ở Biển Đông. Ngày 6 tháng 5 năm 2009, Việt Nam cùng với Malaysia đã đệ trình bản tóm tắt các yêu sách và bản đồ của họ lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên hợp quốc.

Trung Quốc và Việt Nam có một số điểm tương đồng và lịch sử chia sẻ mạnh mẽ. Bất chấp tranh chấp, Việt Nam vẫn duy trì quan hệ đầy đủ chức năng với Trung Quốc. Năm 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành quốc gia đầu tiên công nhận nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Năm 2020 đánh dấu 70 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong khi Trung Quốc vẫn là một trong những mối lo ngại an ninh lớn nhất đối với Việt Nam, thì nước này cũng là một trong những đối tác thương mại lớn nhất. Khi Việt Nam đang trở thành điểm đến ưa thích của các nhà sản xuất toàn cầu, Việt Nam đang hướng nhiều hơn đến Trung Quốc đối với nguyên liệu thô và thiết bị (Khanh, 2021). Do đó, quan hệ Trung Quốc-Việt Nam được xếp vào loại phức tạp có thể được thể hiện trong thế tiến thoái lưỡng nan của Việt Nam trong việc quản lý các mối quan hệ với Trung Quốc, một nước láng giềng/đối tác quan trọng đồng thời là thách thức địa chiến lược.

Nhân tố Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch của các nước trong khu vực. Ấn Độ và Việt Nam có những lợi ích chồng chéo và mối quan tâm chung đối với Trung Quốc. Cả Ấn Độ và Việt Nam đều có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc và từng tham gia vào một cuộc xung đột với Trung Quốc trong quá khứ. Trong khi các tranh chấp lãnh thổ tương ứng gây lo ngại cho hai nước, thì sự hung hăng và bành trướng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Eo biển Malacca và Ấn Độ Dương là vấn đề gây quan ngại lớn hơn đối với các quốc gia đang thúc đẩy trật tự dựa trên luật lệ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Mishra, 2021 ). Cả Ấn Độ và Việt Nam đều có lợi ích kinh tế và chiến lược to lớn trong khu vực. Trong khi các lợi ích chiến lược trực tiếp về lãnh thổ, thương mại và kinh tế cũng như lợi ích chiến lược từ trước mắt đến dài hạn của Việt Nam dựa vào Biển Đông và Eo biển Malacca, thì lợi ích kinh tế và chiến lược đang lên của Ấn Độ trải dài khắp Eo biển Malacca và khu vực Ấn Độ Dương (Pant, 2018 ). Thứ nhất, hơn một nửa thương mại hàng hải của Ấn Độ đi qua eo biển Malacca. Đối với tranh chấp Biển Đông, Ấn Độ không đứng về bên nào mà ủng hộ tự do hàng hải và giải pháp hòa bình dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Ấn Độ đưa ra tuyên bố như sau (Bộ Ngoại giao Ấn Độ, 2019):

… tầm quan trọng đối với tự do hàng hải, hàng không và thương mại hợp pháp không bị cản trở trong vùng biển quốc tế phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982. Ấn Độ ủng hộ giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, bao gồm thông qua tôn trọng các quy trình pháp lý và ngoại giao, không sử dụng đến mối đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, và phù hợp với luật pháp quốc tế. Ấn Độ sẵn sàng hợp tác với các đối tác quốc tế để duy trì và thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Cả Ấn Độ và Việt Nam đều lưu tâm đến những quan ngại và hạn chế của mỗi nước. Là các bên liên quan có trách nhiệm tin tưởng vào trật tự Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương dựa trên luật lệ, cả hai đã cố gắng tránh đối đầu trực tiếp với Trung Quốc. Cả Ấn Độ và Việt Nam đều đang nỗ lực tìm kiếm một giải pháp hòa bình do ASEAN dẫn đầu cho tranh chấp Biển Đông đồng thời ủng hộ ý tưởng của Mỹ về hoạt động tự do hàng hải.

 

Vai trò của ASEAN trong ứng phó với Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông

Do sự bất cân xứng về sức mạnh khổng lồ so với Trung Quốc, Việt Nam muốn ASEAN đi đầu trong tranh chấp, mặc dù Trung Quốc muốn đàm phán với các bên yêu sách Đông Nam Á ở cấp độ song phương. Trung Quốc trở thành đối tác đối thoại của ASEAN vào năm 1996 và ngày nay là một thành viên quan trọng của các cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Ngoài ra, Trung Quốc đã trở thành đối tác đối thoại đầu tiên ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác với ASEAN vào năm 2003 và thiết lập Quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc cùng năm. Từ những năm 1990, các mối quan hệ đã trở nên đa diện trong khuôn khổ ASEAN+1 và thông qua các cơ chế khác do ASEAN dẫn dắt.

Sự nhấn mạnh của ASEAN về “tính trung tâm” và “đường lối ASEAN” là động lực trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông. Tháng 11 năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông. Trong khi Trung Quốc trì hoãn việc ký kết COC, ASEAN lại rất quan tâm. Vào ngày 6 tháng 8 năm 2017, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và Trung Quốc cuối cùng đã thông qua khung COC. Một năm sau, vào tháng 11/2017, các nguyên thủ quốc gia ASEAN cùng với Trung Quốc đã khởi động đàm phán COC để hoàn tất vào cuối năm 2021 (ASEAN, 2020). Bám sát tiến trình đàm phán do ASEAN dẫn đầu với Trung Quốc cho thấy cam kết của các quốc gia thành viên đối với vai trò trung tâm của ASEAN và quyết tâm biến ASEAN thành một thể chế vững mạnh. Việc ban hành Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (AOIP) cũng có thể được nhìn nhận trong bối cảnh này.

 

Quan hệ với Mỹ

Đối với các yêu cầu quốc phòng, Việt Nam đã dựa vào Nga và Ấn Độ cùng các nước khác. Thậm chí ngày nay, hơn hai phần ba vũ khí của Việt Nam đến từ Nga. Không phải ngẫu nhiên mà Nga, Trung Quốc và Ấn Độ đều nằm trong danh sách lựa chọn các nước mà Việt Nam đã ký kết thỏa thuận đối tác chiến lược toàn diện. Điều này đã được Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam khi đó là Phạm Bình Minh nhấn mạnh vào năm 2014 như sau:

Việc triển khai quan hệ Đối tác chiến lược và toàn diện diễn ra theo lộ trình chủ động và tích cực, trong đó đặc biệt coi trọng các nước bạn bè truyền thống Nga và Ấn Độ, các nước láng giềng trong khu vực (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) và các nước lớn của châu Âu (Anh, Đức, Pháp). , và các đối tác quan trọng khác.

Chiến tranh Lạnh kết thúc đã mang lại những thay đổi trong hệ thống quốc tế. Gạt bỏ những giai đoạn cay đắng trong quá khứ sang một bên, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ vào năm 1995. Từ đó, hai bên đã nhận ra tầm quan trọng của sự có đi có lại trong các ưu tiên chính sách đối ngoại .

Rõ ràng, Việt Nam đang cân nhắc các lựa chọn và dường như đã coi Mỹ là một đối tác an toàn và đáng tin cậy. Một trong những mục tiêu ngoại giao đã nêu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là phát triển quan hệ hữu nghị với các cường quốc. Nó đã củng cố quan hệ đối tác với từng thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. (Mishra, 2013a, 2013b)

Không có hai quan điểm rằng ngày nay Việt Nam và Mỹ có một số lợi ích chung và các mối quan tâm chồng chéo lẫn nhau. Việt Nam đã và đang cố gắng tiếp cận với các bên liên quan quốc tế, lưu ý đến khả năng Việt Nam có thể cần sự hỗ trợ của họ trên diễn đàn quốc tế, đặc biệt là Mỹ. Tương tự như vậy, Mỹ đang tìm kiếm các đối tác đáng tin cậy mới ở Đông Nam Á không chỉ để bảo vệ lợi ích mà còn là một đối trọng tiềm tàng đối với Trung Quốc (Mishra, 2013a, 2013b).

Không phải ngẫu nhiên mà cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố 'giấc mơ Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương' của Mỹ tại Đà Nẵng, Việt Nam, trong Hội nghị Cấp cao Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 2017. Phát biểu về một cấu trúc khu vực mới, đó là Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tại hội nghị thượng đỉnh APEC là một dấu hiệu rõ ràng rằng chính quyền Mỹ sẽ thay thế cấu trúc khu vực APEC bằng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Một khía cạnh quan trọng không kém trong tuyên bố của Trump là sự lựa chọn địa điểm của ông, đó là Việt Nam. Trong vài năm qua, quan hệ Việt Nam - Mỹ không chỉ có một bước nhảy vọt về bản chất tổng thể của mối quan hệ mà thành phần chiến lược quân sự trong mối quan hệ song phương của họ cũng đã chuyển đổi về chất. Chính quyền Trump đã thực hiện một số bước quan trọng khiến Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trở thành một đặc điểm chính trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Joe Biden, người vừa đảm nhiệm chức vụ Tổng thống Mỹ, đã bày tỏ cam kết đối với tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, qua đó nêu bật rõ ràng tính liên tục trong cách tiếp cận chính sách đối ngoại của Mỹ.

Tuy nhiên, cũng đúng là vẫn tồn tại một số khác biệt chính giữa Mỹ và Việt Nam, điều khiến Việt Nam khó chịu. Ví dụ, trước đây đã có những lo ngại về tình hình nhân quyền và việc thiếu một hệ thống dân chủ ở Việt Nam, khiến các nhà lãnh đạo của Việt Nam rơi vào tình thế khó xử. Trong nhiệm kỳ của Trump, những vấn đề này không xuất hiện nhiều trong các cuộc đối thoại, nhưng khả năng chúng sẽ xuất hiện dưới thời chính quyền Biden do đảng Dân chủ cầm quyền là có thể xảy ra.

Trong nhiệm kỳ tổng thống của Trump, Việt Nam đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh Trump-Kim Jong Un, đây chắc chắn là một ví dụ về sự tin tưởng ngày càng tăng trong quan hệ Mỹ-Việt Nam. Việt Nam cũng được hưởng lợi lớn nhờ sự chuyển hướng trong chuỗi cung ứng toàn cầu do cuộc chiến thương mại của Trump với Trung Quốc. Cũng có thông tin cho rằng các công ty Trung Quốc đã chuyển cơ sở sang Việt Nam để làm chệch hướng thái độ hung hăng của Mỹ đối với các mối quan ngại thương mại với Trung Quốc. Chưa hết, việc ‘Chính quyền Trump dán nhãn Việt Nam là nước thao túng tiền tệ (năm 2020) làm dấy lên khả năng Mỹ áp thuế đối với hàng hóa Việt Nam. Khoảng cách thương mại mở rộng lên 63 tỷ đô la vào năm 2020 từ 47 tỷ đô la vào năm 2019’ (Khánh, 2021). Đại diện Thương mại Mỹ đã nhắc lại điều đó vào tháng 1 năm 2021. Ông tuyên bố, 'Các hành động của Việt Nam nhằm hạ thấp giá trị đồng tiền là 'không hợp lý' và hạn chế thương mại của Mỹ', nhưng ông 'không có hành động ngay lập tức để áp đặt thuế quan trừng phạt—để lại quyết định trong tay chính quyền Biden' (Khánh, 2021). Về bản chất, quan hệ Việt Nam - Mỹ vẫn chưa hoàn toàn ổn định và có một số vấn đề có thể nảy sinh giữa hai bên và tạo ra những kịch bản không mong muốn. Một đánh giá sáng suốt về nhận thức và ưu tiên an ninh của Việt Nam phải tính đến khía cạnh này.

 

Tầm quan trọng ngày càng tăng của Nhật Bản

Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam phát triển bền vững mối quan hệ với Nhật Bản là một bước tiến quan trọng. Cả Ấn Độ và Việt Nam đều cảm thấy thoải mái khi làm việc với Nhật Bản. Trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Shinzo Abe, quan hệ của Nhật Bản với Việt Nam đã có một bước nhảy vọt. Người kế nhiệm ông Abe, đương kim Thủ tướng Suga Yoshihide đã chọn Việt Nam và Indonesia là điểm đến trong chuyến thăm chính thức đầu tiên vào tháng 10/2020, điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của Nhật Bản đối với Việt Nam, không chỉ về thương mại, đầu tư, lao động mà còn về quốc phòng. và các mối quan hệ chiến lược.

Trong chuyến thăm , Suga đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Ông tuyên bố, ‘Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được tầm nhìn của chúng tôi về “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Tự do và Cởi mở”, và là đối tác quý báu của chúng tôi’ (Economic Times, 2020a). Ông thậm chí còn bóng gió về sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông, “Thật không may là ở khu vực này, có một động thái ở Biển Đông đi ngược lại luật pháp và sự cởi mở được nêu trong Tầm nhìn ASEAN này, và Nhật Bản cực lực phản đối bất kỳ nỗ lực nào làm như vậy. leo thang căng thẳng ở Biển Đông' (Dinh & Yamaguchi, 2020). Shinzo Abe là một trong những người tiên phong mạnh mẽ nhất của Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và việc Suga tập trung vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ở Việt Nam cho thấy tầm quan trọng của quốc gia Đông Nam Á trong các tính toán an ninh khu vực của Nhật Bản. Nhật Bản và Việt Nam đã nâng tầm quan hệ lên “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á” vào năm 2014 khi Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang thăm Nhật Bản (Bộ Ngoại giao, 2021).

Việc Nhật Bản tích cực thúc đẩy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và Quan hệ đối tác vì cơ sở hạ tầng chất lượng (PQI) mang đến những khả năng mới cho Việt Nam. Khi Ấn Độ và Nhật Bản đang khám phá các cơ hội đầu tư vào nước thứ ba bằng cách sử dụng nền tảng Hành lang Tăng trưởng Á-Phi, Việt Nam có thể đóng vai trò là một điểm đến đầu tư tuyệt vời và hưởng lợi từ đó.

 

Động lực an ninh khu vực: Cấu trúc Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương

Ấn Độ đã chính thức vạch ra cách tiếp cận đối với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong bài phát biểu tại Shangri La của Thủ tướng Narendra Modi vào ngày 1 tháng 6 năm 2018. Cách tiếp cận Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bao hàm nguyện vọng biến trật tự Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trở thành tự do, cởi mở và bao trùm, dựa trên sự tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia trong khu vực bất kể sức mạnh hay quy mô của họ (Bộ Ngoại giao, 2020a).

Không thể phóng đại tầm quan trọng của việc giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế trong quan hệ Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Ấn Độ. Bản tóm tắt của Bộ phận Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thuộc Bộ Ngoại giao Ấn Độ (2020a) cũng tôn trọng quyền tự do hàng hải và hàng không cho tất cả mọi người ở các vùng biển quốc tế, đề cập đến Biển Đông và hành vi của Trung Quốc đối với chấm dứt các hoạt động thăm dò dầu khí chung đang được thực hiện bởi Ấn Độ và Nhật Bản. Để xoa dịu nỗi sợ hãi của bạn bè và đối tác trong khu vực ASEAN, ông Modi nói rõ rằng, Ấn Độ không quan tâm đến việc thành lập câu lạc bộ các quốc gia độc quyền để loại trừ một quốc gia trong khu vực. Ông nhấn mạnh thêm rằng “Tính trung tâm của ASEAN” là cốt lõi trong cách tiếp cận Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Ấn Độ. Sự trình bày rõ ràng của Modi về cách tiếp cận Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và việc ông cẩn thận bỏ qua Quad đã gây được tiếng vang khắp các thủ đô ở Đông Nam Á. Nhật Bản cũng đưa ra những lời giải thích tương tự khi nói rằng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là bao trùm và Nhật không cần phải có cách suy nghĩ, hành xử giống như các thành viên khác trong nhóm Quad. Những diễn biến tích cực này cùng với sự nhiệt tình của một số thành viên ASEAN như Indonesia và Việt Nam cuối cùng đã khiến ASEAN tuyên bố cách tiếp cận của riêng ASEAN đối với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Thật vậy, đó là một thời điểm bước ngoặt trong việc thiết lập các đường nét chiến lược của khu vực dựa trên các yêu cầu của kịch bản khu vực đang thay đổi.

Ấn Độ là quốc gia đầu tiên đặt vai trò trung tâm của ASEAN trong cách tiếp cận đối với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Việt Nam là đối tác quan trọng trong khu vực của Ấn Độ. Trong hội nghị thượng đỉnh trực tuyến Ấn Độ-Việt Nam năm 2020, Modi đã gọi Việt Nam là trụ cột chính trong chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ và là đối tác quan trọng trong Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Economic Times, 2020b). Trung Quốc là nguyên nhân gây lo ngại cho một số quốc gia bao trùm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhưng Trung Quốc không phải là yếu tố chính đằng sau sự tham gia của các nước. Bằng cách đặt ASEAN làm trung tâm của chính sách Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Ấn Độ đã thể hiện rõ ràng rằng Chính sách Hành động hướng Đông của họ phù hợp với tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

ASEAN là tổ chức đa phương đầu tiên và duy nhất cho đến nay đưa ra tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Điều này xảy ra sau khi các quốc gia như Ấn Độ và Nhật Bản đặt ASEAN làm trung tâm trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của họ. Để làm rõ lập trường và ngăn khu vực trở thành một sân khấu địa chính trị trong bối cảnh cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, ASEAN đã đưa ra AOIP của riêng mình. Giống như một số thành viên ASEAN khác, Việt Nam cũng ủng hộ và tán thành việc xây dựng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cách tiếp cận của Việt Nam về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tương đồng với AOIP. Tuy nhiên, Việt Nam khó có thể đi theo con đường của Indonesia và vạch ra con đường độc lập của riêng mình trong việc hỗ trợ, ủng hộ và thúc đẩy cấu trúc Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cách tiếp cận của Việt Nam đối với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương gắn chặt với hiệp hội ASEAN được thể hiện rõ ràng trong tuyên bố sau đây từ Sách Trắng Quốc phòng (Bộ Quốc phòng [White Paper], 2019):

Việt Nam sẵn sàng tham gia các cơ chế hợp tác an ninh, quốc phòng phù hợp với khả năng và lợi ích , trong đó có các cơ chế an ninh, quốc phòng ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, của Liên minh châu Âu và Liên hợp quốc. Việt Nam chủ trương mở rộng hợp tác giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài trong khuôn khổ các cơ chế an ninh đa phương do ASEAN dẫn dắt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc và chuẩn mực cơ bản của ASEAN.

Tuyên bố liên quan tới Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cũng đã được tìm thấy trong các tài liệu chính thức của Ấn Độ-Việt Nam. Chẳng hạn, Tuyên bố chung năm 2018 được đưa ra trong chuyến thăm của Tổng thống Ấn Độ Ram Nath Kovind, đã nêu rõ (Bộ Ngoại giao, 2018):

Hai bên nhắc lại tầm quan trọng của việc xây dựng châu Á và khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hòa bình, thịnh vượng, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế cũng như tự do hàng hải, hàng không và các hoạt động kinh tế không bị cản trở.

Việt Nam mong muốn ASEAN dẫn đầu ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhưng đồng thời cũng đang vun đắp quan hệ song phương với các quốc gia đang thúc đẩy xây dựng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đặc biệt là các nước thành viên nhóm Quad. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Việt Nam muốn trở thành một phần của Quad mở rộng, như sẽ được thảo luận ở phần sau.

 

Sáng kiến Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Ấn Độ (IPOI)

IPOI được Thủ tướng Modi đưa ra tại Bangkok vào ngày 4 tháng 11 năm 2019. Modi đã chọn Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) làm cơ hội để ra mắt IPOI, đây là sáng kiến mở cho tất cả dựa trên bảy trụ cột, đó là: Xây dựng năng lực và chia sẻ tài nguyên; Quản lý và Giảm nhẹ Rủi ro Thiên tai; Sinh thái biển; Tài nguyên Hàng hải; An ninh hàng hải; Hợp tác Khoa học, Công nghệ và Học thuật; và Kết nối Thương mại và Vận tải Hàng hải (Bộ Ngoại giao, 2020a).

Việt Nam đã hòa nhập tốt vào IPOI của Ấn Độ. Các dự án kết nối cơ sở hạ tầng xuyên quốc gia của Ấn Độ có Việt Nam là thành viên chủ chốt. Ví dụ, đường cao tốc ba bên Ấn Độ-Myanmar-Thái Lan nhằm mục đích cuối cùng là liên kết với Campuchia và Việt Nam thông qua mạng lưới đường bộ. Trong các lĩnh vực quan trọng khác, Việt Nam cũng được coi trọng - cho dù đó là xây dựng năng lực hay chia sẻ tài nguyên, vận tải biển hay quản lý rủi ro thiên tai, Ấn Độ và Việt Nam đều đã đạt được những bước tiến đáng kể. Với việc Úc đồng ý điều phối phân khúc sinh thái biển và Nhật Bản cũng làm như vậy trên mặt trận kết nối, rõ ràng sáng kiến IPOI của Ấn Độ sẽ nhận được sự hỗ trợ và ủng hộ của các đối tác lớn ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Trong số các nước thành viên ASEAN, cả Việt Nam và Philippines đã nhất trí hợp tác chặt chẽ với Ấn Độ trong khuôn khổ IPOI. Các sáng kiến đa phương quan trọng khác như An ninh và Tăng trưởng cho tất cả mọi người trong khu vực (SAGAR), Sáng kiến phục hồi chuỗi cung ứng, Mạng lưới Blue Dot và Liên minh về cơ sở hạ tầng chống chịu thiên tai đã mở ra triển vọng hợp tác mới giữa Ấn Độ và Việt Nam.

 

Quan hệ Ấn Độ-Việt Nam: Hiện trạng và định hướng tương lai

Việt Nam nằm ở trung tâm trong chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ, chính sách này không chỉ tiếp nối với chính sách Hướng Đông mà còn với truyền thống hàng chục năm qua về quan hệ chiến lược và quốc phòng bền chặt với Việt Nam. Ấn Độ và Việt Nam đã ký hiệp định đối tác chiến lược vào ngày 6 tháng 7 năm 2007, đây là một trong những quan hệ đối tác chiến lược đầu tiên mà Ấn Độ ký kết ở khu vực Đông Nam Á. Trong những năm của chính sách Hành động hướng Đông, một số bước phát triển quan trọng đã diễn ra trong việc tăng cường quan hệ Ấn Độ-Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 9 năm 2016 của Thủ tướng Modi, Thủ tướng Modi coi Việt Nam là trụ cột quan trọng của chính sách Hành động hướng Đông (Bộ Ngoại giao, 2016) và hai bên nhất trí xây dựng Kế hoạch hành động nhằm đưa quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện đi vào hiện thực trên tất cả các lĩnh vực hợp tác (Bộ Ngoại giao, 2016).

Về hợp tác quốc phòng, Thủ tướng Modi không chỉ nhắc lại cam kết của Ấn Độ cung cấp hỗ trợ cần thiết trong việc phát triển năng lực quốc phòng của Việt Nam mà còn công bố hạn mức tín dụng mới trong lĩnh vực quốc phòng cho Việt Nam. Trong chuyến thăm của ông, hai bên đã thống nhất rằng Công ty sản xuất công nghiệp nặng Larsen & Toubro Ấn Độ, phối hợp với Bộ đội Biên phòng Việt Nam, sẽ cung cấp tàu tuần tra cao tốc ngoài khơi trị giá 100 triệu USD theo dòng tín dụng Ấn Độ dành cho Việt Nam (Bộ Ngoại giao, 2016). Ấn Độ cũng cam kết tài trợ 5 triệu USD để xây dựng Công viên phần mềm quân đội tại Đại học Viễn thông Nha Trang (Bộ Ngoại giao, 2016). Bản ghi nhớ (MoU) về an ninh mạng là một nội dung quan trọng khác trong danh sách các thỏa thuận được ký kết trong chuyến thăm Việt Nam của ông Modi. Điều đáng nói ở đây là Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ Quốc phòng Ấn Độ-Việt Nam, được thống nhất vào tháng 5 năm 2015 và nhằm thực hiện các mục trong chương trình nghị sự từ năm 2015 đến năm 2020, đã đạt được tiến bộ đáng kể.

 

Ấn Độ hỗ trợ hậu cần cho lĩnh vực quốc phòng Việt Nam

Thỏa thuận hợp tác quốc phòng quan trọng đầu tiên giữa Ấn Độ và Việt Nam được ký kết vào tháng 9 năm 1994 (Chakravorty, 2019). Sau đó, hợp tác quốc phòng toàn diện bắt đầu với việc ký kết một giao thức quốc phòng chính thức vào năm 2000 (Mishra, 2014). Thỏa thuận này đã mở đường cho Việt Nam mua máy bay trực thăng quân sự và thiết bị sửa chữa máy bay và tạo điều kiện cho Ấn Độ đào tạo nhân viên quân sự của Việt Nam (Pant, 2018). Nghị định thư bao gồm việc bán máy bay trực thăng quân sự, thiết bị sửa chữa máy bay MiG-21 của Việt Nam và các chương trình đào tạo cho quân nhân và phi công của Việt Nam. Từ đó, hai nước đã chia sẻ lăng kính chung về các vấn đề chiến lược như quốc phòng và an ninh hàng hải trên Vịnh Bengal và Biển Andaman (Mishra, 2013b).

Việt Nam là một trong những nước hưởng lợi sớm nhất và lớn nhất từ sự hỗ trợ quốc phòng của Ấn Độ trên mặt trận hậu cần. Việc thực hiện Hạn mức tín dụng 100 triệu USD để đóng tàu tuần tra cao tốc cho Bộ đội Biên phòng Việt Nam là một trong những ví dụ mới nhất về vấn đề này. Phía Việt Nam đánh giá cao việc Ấn Độ cung cấp Hạn mức tín dụng trị giá 500 triệu USD cho ngành công nghiệp quốc phòng và nhất trí đẩy nhanh các thủ tục để phê duyệt. Trong tất cả các nước ASEAN, hợp tác quốc phòng của Ấn Độ với Việt Nam ở mức rất cao. Việt Nam là một trong số ít quốc gia mà Ấn Độ có Hiệp định Đối tác Chiến lược Toàn diện.

Trong hội nghị thượng đỉnh trực tuyến Ấn Độ-Việt Nam vào ngày 21 tháng 12 năm 2020 giữa Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, ông Modi đã phát biểu (Văn phòng Thủ tướng, 2020),

Tăng cường quan hệ đối tác quốc phòng và an ninh giữa Ấn Độ và Việt Nam sẽ là một yếu tố quan trọng cho sự ổn định ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Để đạt được mục tiêu này, hai bên sẽ đẩy mạnh các chương trình trao đổi quân sự, đào tạo và xây dựng năng lực giữa ba quân chủng và lực lượng bảo vệ bờ biển, đồng thời sẽ tăng cường hợp tác công nghiệp quốc phòng dựa trên các hạn mức tín dụng quốc phòng của Ấn Độ dành cho Việt Nam. Hai nước sẽ tiếp tục thể chế hóa trao đổi quốc phòng thông qua hỗ trợ hậu cần lẫn nhau, thăm tàu thường xuyên, tập trận chung, trao đổi khoa học và công nghệ quân sự, chia sẻ thông tin.

Tuyên bố đề cập đến tất cả các khía cạnh của quan hệ quốc phòng và an ninh và chỉ ra sự thúc đẩy trong quan hệ. Hai nước thân thiện với nhau giải thích khía cạnh quốc phòng công khai trong quan hệ song phương. Các mục tiêu chung, cách tiếp cận tương tự, sự liên kết lợi ích chung gắn kết Ấn Độ và Việt Nam lại gần nhau hơn. Hợp tác quốc phòng hiện nay bao gồm hợp tác quân sự truyền thống, chia sẻ thông tin tình báo, cập cảng, đào tạo quân nhân, xây dựng năng lực, Hạn mức tín dụng cho mua sắm quốc phòng, v.v. . Hai bên nhất trí rằng Ấn Độ sẽ huấn luyện các nhân viên của Lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam lái SU-30. Ấn Độ cũng đồng ý hỗ trợ đào tạo thủy thủ đoàn tàu ngầm, bên cạnh hoạt động chống nổi dậy, chiến tranh du kích và tất cả các lĩnh vực đào tạo lực lượng vũ trang khác (Chakravorty, 2019).

Hai nước tương tác ở các cấp độ khác nhau và có một số cơ chế để gắn kết lẫn nhau. Cuộc họp Ủy ban Hỗn hợp ở cấp Bộ trưởng Ngoại giao và Tham vấn Bộ Ngoại giao và Đối thoại Chiến lược ở cấp thư ký là những trường hợp điển hình và bao gồm các cuộc thảo luận về nhiều vấn đề.

Tháng 5 năm 2015, Tuyên bố Tầm nhìn chung về Hợp tác Quốc phòng giai đoạn 2015–2020 đã được ký kết nhân chuyến thăm Ấn Độ của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh. Cả hai bên đã quyết định tăng cường hơn nữa cường độ tương tác và tạo điều kiện hợp tác phát triển các công nghệ mới sau đó. Một trong những kết quả quan trọng là Biên bản ghi nhớ về hợp tác giữa Lực lượng Cảnh sát biển. Các cuộc đối thoại ở cấp độ quân sự cũng đang diễn ra giữa Ấn Độ và Việt Nam. Cuộc hội đàm nhân viên lục quân đầu tiên được tổ chức tại New Delhi vào tháng 7 năm 2017. Vào tháng 5 năm 2016, Hải quân Ấn Độ và Hải quân Nhân dân Việt Nam đã bắt đầu các cuộc đàm phán nhân viên thường niên. Vòng đàm phán thứ hai được tổ chức tại New Delhi vào tháng 12/2017.

Về xuất khẩu quốc phòng, 'mô hình Việt Nam' của Ấn Độ, tức là cung cấp hạn mức tín dụng cho việc mua sắm quốc phòng, đang ghi nhận thành công với việc Philippines thể hiện sự quan tâm đến việc mua sắm tên lửa Brahmos từ Ấn Độ. Một sáng kiến như vậy sẽ là ‘một tình huống đôi bên cùng có lợi cho phép Philippines đa dạng hóa các nguồn cung cấp quốc phòng đồng thời góp phần vào sự thành công của chiến dịch “Sản xuất tại Ấn Độ” của Modi’ (Mishra, 2019). Điều thú vị cần lưu ý ở đây là vào tháng 8 năm 2017, Việt Nam đã ám chỉ rằng họ đã mua tên lửa hành trình Brahmos. Điều này được thể hiện rõ qua trả lời của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trong cuộc họp báo diễn ra ngày 1/9/2017. Trả lời câu hỏi về việc Việt Nam mua Brahmos, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: '[i]Không cần phải nhấn mạnh rằng Việt Nam kiên trì theo đuổi chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ. Việc Việt Nam mua sắm trang thiết bị quốc phòng phù hợp với chính sách hòa bình, tự vệ và là hoạt động bình thường trong quốc phòng” (Bộ Ngoại giao, 2017). Tuy nhiên, Ấn Độ cho rằng những báo cáo như vậy là không chính xác (Economic Times, 2018) mặc dù các tín hiệu trái ngược nhau đã được đưa ra trước đó vào năm 2016 (USNI, 2016).

Tuy nhiên, theo các báo cáo gần đây, Ấn Độ và Nga đã quyết định bán Brahmos cho Philippines. Theo các báo cáo, ‘quốc gia thứ hai trong danh sách là Indonesia, trong khi Việt Nam, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Ả Rập Xê Út và Nam Phi cũng bày tỏ sự quan tâm đến Brahmos’ (Times of India, 2021). Cũng có thông tin cho rằng 9 quốc gia cũng bày tỏ sự quan tâm đến việc mua sắm hệ thống tên lửa Akash được phát triển trong nước. Ngoài Việt Nam, Indonesia và Philippines, Bahrain, Ả Rập Saudi, Ai Cập, Algeria và Kenya cũng quan tâm đến việc mua tên lửa Akash của Ấn Độ (Times of India, 2021).

 

Quad, Quad mở rộng và những lựa chọn chiến lược của Việt Nam

Ý tưởng về Quad được Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đề xuất vào tháng 8 năm 2007 như một vòng cung dân chủ châu Á, một nhóm gồm các quốc gia có cùng chí hướng liên quan đến Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và Mỹ. Cuộc tập trận chung giữa bốn quốc gia - Malabar - được tiến hành cùng thời điểm đã gióng lên hồi chuông cảnh báo ở Trung Quốc. Bắc Kinh đã phản đối Quad. Lo sợ phản ứng dữ dội từ Trung Quốc, nơi nền kinh tế của họ phụ thuộc rất nhiều, Úc đã rút khỏi Quad vào tháng 2 năm 2008, đẩy nước này vào tình trạng không hoạt động trong Quad. Một thập kỷ sau, trong Hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 11 năm 2017, Quad đã được hồi sinh. Từ năm 2017 đến năm 2021, một số cuộc họp cấp quan chức cấp cao và cấp Bộ trưởng Ngoại giao đã diễn ra. Ba cuộc họp cấp bộ trưởng đã diễn ra cho đến nay. Cuộc họp cấp cao đầu tiên của Bộ Tứ Quad cũng được tổ chức trực tuyến vào ngày 12 tháng 3 năm 2021. Nêu bật cách tiếp cận của Ấn Độ đối với Bộ Tứ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ấn Độ S. Jaishankar đã phát biểu khai mạc tại Hội nghị Bộ trưởng Bộ Tứ lần thứ hai ở Tokyo, Nhật Bản (Bộ Đối ngoại, 2020b):

…là các nền dân chủ sôi động và đa nguyên với các giá trị được chia sẻ, các quốc gia của chúng ta đã cùng nhau khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do, cởi mở và bao trùm. Chúng tôi tiếp tục cam kết duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, được củng cố bởi pháp quyền, minh bạch, tự do hàng hải ở các vùng biển quốc tế, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền và giải quyết hòa bình các tranh chấp.

Cuộc họp Quad thứ hai được coi là quan trọng trên một số khía cạnh. Một số cam kết thú vị đã được đưa ra bởi các nhà lãnh đạo của bốn quốc gia thành viên kèm theo những khẩu hiệu. Ví dụ, trong cuộc họp, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ lúc bấy giờ là Stephen Biegun đã kêu gọi một “liên minh giống như NATO” với ba đối tác Quad. Đáp lại, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị gọi đây là một phần trong nỗ lực của Washington nhằm xây dựng một “NATO ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Thật thú vị, tuyên bố của Vương Nghị được đưa ra hoàn toàn trái ngược với tuyên bố trước đó của chính ông về Quad, khi ông gọi đó chỉ là bọt biển. Tất nhiên, những phát triển liên quan đến việc thể chế hóa Quad đã khiến Trung Quốc cảnh giác với những nỗ lực phối hợp của bốn cường quốc.

Sự khác biệt tinh tế giữa Trung Quốc – quốc gia – và ĐCSTQ là điều mà cựu Ngoại trưởng Mỹ Pompeo đã lặp lại trong một số bài phát biểu trong chuyến thăm một số quốc gia châu Á. Tuy nhiên, điều này một lần nữa không phù hợp lắm với sự nhạy cảm của Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á và Đông Á khác. Dân chủ luôn là một chủ đề nhạy cảm đối với khu vực Đông Nam Á và Đông Á, và một số quốc gia trong khu vực cảm thấy đặc biệt khó giải quyết với Mỹ về vấn đề này. Quad là một liên minh gồm các nền dân chủ và thật khó kỳ vọng một quốc gia xã hội chủ nghĩa như Việt Nam sẽ trở thành một phần của chiến lược Quad.

 

Quad mở rộng

Ý tưởng về cơ chế Quad mở rộng đã là một vấn đề thảo luận giữa các nhóm chuyên gia cố vấn và các nhà hoạch định chính sách ở bốn quốc gia Quad. Theo thời gian, các thử nghiệm hoán vị và kết hợp đã được đề xuất và cân nhắc. Danh sách này không chỉ có Việt Nam mà còn có cả Hàn Quốc, New Zealand và theo một số người thậm chí có cả Indonesia ở một số giai đoạn. Cũng đã có những cuộc đàm phán về việc đưa Anh và Pháp vào Quad. Chính Tarō Kōno, bộ trưởng ngoại giao Nhật Bản, người đã chính thức gợi ý rằng Anh và Pháp có thể tham gia vào các cuộc tham vấn cấp bộ trưởng và quan chức cấp cao của Quad. Boris Johnson, Thủ tướng Vương quốc Anh, thậm chí đã đưa ra ý tưởng về Bộ tứ xuyên Đại Tây Dương.

 

Việt Nam do dự với Quad

Một số học giả đã lập luận rằng Quad nên và cuối cùng sẽ bao gồm Việt Nam như một phần của cơ chế Quad mở rộng. Tuy nhiên, một giả định như vậy không nắm bắt đầy đủ các tín hiệu chiến lược của Việt Nam. Quan hệ đối tác Quad giữa Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ vẫn đang hình thành và nó phải đáp ứng một số tiêu chí hơn trước khi có thể xác định các đường nét hợp tác quân sự giữa các thành viên Quad ban đầu. Trừ khi nó có được vai trò của nền tảng cung cấp bảo mật nhanh chóng và cam kết, sẽ thật ngây thơ khi mong đợi cái gọi là các quốc gia Quad mở rộng tham gia nền tảng này. Không giống như Hàn Quốc, Việt Nam không có hiệp ước an ninh với Mỹ hoặc các đồng minh của Mỹ. Nói cách khác, Việt Nam không phải là đối tác đồng minh của Mỹ. Giống như Ấn Độ, nước này không chỉ có mối quan hệ không liên minh vẫn đang phát triển với Mỹ mà còn thân thiết với Nga và phụ thuộc vào Moscow về phần lớn nguồn cung cấp quốc phòng. Trong tình huống quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc trở nên xấu đi cùng với việc Mỹ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn, Nga đương nhiên sẽ đứng về phía Trung Quốc, đặt ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan về chính sách khác cho Việt Nam. Đây là những hạn chế mà Việt Nam phải suy nghĩ nếu tham gia nhóm Quad mở rộng.

Các thành viên Quad bao gồm cả Ấn Độ đang bận rộn củng cố các cơ chế để thể chế hóa nó và làm cho nó nhanh chóng và hiệu quả để đối phó với bất kỳ thách thức nào mà các thành viên của nó có thể gặp phải trong thời gian tới. Khi Quad đã chứng minh tính hiệu quả , nó sẽ tiếp tục thu hút thêm các thành viên mới. Ấn Độ nên đặc biệt cẩn thận với việc đưa Việt Nam vào giai đoạn này vì một bước đi như vậy có thể làm chệch hướng những lợi ích mà cả Ấn Độ và Việt Nam thu được từ Nga cùng những lợi ích khác. Ngoài ra, ngay cả trong trường hợp xấu nhất, Việt Nam cũng không muốn chọc giận Trung Quốc trừ khi nước này có các đối tác đáng tin cậy và khả năng răn đe. Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ, ông Phạm Sanh Châu, đã nhắc lại điều này trong thông cáo báo chí của ông vào năm 2018. Ý nghĩa của tuyên bố nằm ở chỗ nó được đưa ra ngay trước chuyến thăm tháng 11 năm 2018 của Tổng thống Ấn Độ Ram Nath Kovind. Trả lời câu hỏi liệu Việt Nam có tham gia Quad hay không, Đại sứ Phạm cho biết, chúng tôi không muốn bất kỳ liên minh quân sự nào vì điều đó không có lợi cho an ninh khu vực (Times of India, 2018). Ông nói thêm rằng, Việt Nam hoan nghênh bất kỳ sáng kiến nào có thể mang lại hòa bình trong khu vực nhưng nếu có bất kỳ hành vi cấu kết hoặc sử dụng vũ lực nào thì điều đó sẽ đi ngược lại lập trường của Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù còn xa vời, nhưng một sự thay đổi về chất trong mối đe dọa từ Trung Quốc có thể thúc đẩy Việt Nam tham gia cơ chế Quad (mở rộng) như đã từng xảy ra với Ấn Độ, học giả Quang Dy (2020) lập luận,

Trong khi các nhà lãnh đạo Việt Nam không muốn đi theo khái niệm Quad mở rộng, thì sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông có thể buộc họ phải ra tay. Như được dự kiến trong điều khoản dự phòng của Sách trắng Quốc phòng, Hà Nội dự kiến sẽ tham gia Quad theo các bước thận trọng để tránh gây phản cảm không cần thiết với nước láng giềng hùng mạnh hơn .

Rõ ràng, khả năng chấp nhận Quad mở rộng hoặc bất kỳ nền tảng nào liên quan đến Quad tỷ lệ thuận với mức độ đe dọa mà Trung Quốc gây ra cho các nước thành viên ASEAN.

Tóm lại, có thể lập luận rằng dựa trên nhận thức về các động lực an ninh khu vực, Việt Nam sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách đặt quan hệ chiến lược trên cơ sở song phương trong khi tiến hành thận trọng việc thiết lập các thỏa thuận đa phương không nhằm chống lại một quốc gia cụ thể. Khi làm như vậy, Việt Nam sẽ tiếp tục đồng bộ hóa các động thái chiến lược và ngoại giao với các nước thành viên ASEAN. Quan trọng hơn, xét đến các động lực chiến lược hay thay đổi và tính chất không chắc chắn của các bên liên quan chính trong khu vực, Việt Nam sẽ tiếp tục thu hút càng nhiều bên liên quan chính càng tốt. Trong bối cảnh này, Ấn Độ có vai trò quan trọng trong khu vực cũng như trong chiến lược an ninh và chiến lược của Việt Nam và đóng vai trò là một bên ổn định củng cố cam kết của Việt Nam đóng góp cho trật tự Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương cởi mở, hòa bình, dựa trên luật lệ và bao trùm. Là một trong những đối tác tin cậy của Ấn Độ ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam mong muốn Ấn Độ đóng vai trò quan trọng trong việc định hình các động lực an ninh của khu vực. Trật tự Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang nổi lên, trong đó đặt Ấn Độ là một bên liên quan chính, mang lại triển vọng hợp tác mới cho Ấn Độ và Việt Nam trong việc đáp ứng các mục tiêu chính sách đối ngoại của họ.

 

Tài liệu tham khảo

Amer, R. (2014, March). Vietnam’s relations with China—A multifaceted partnership. Institute for Security & Development Policy. https://isdp.eu/publication/vietnamsrelations-china-multifaceted-partnership/

ASEAN Secretariat. (2012, October). Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea. https://asean.org/?static_post=declaration-on-the-conduct-of-parties-inthe-south-china-sea-2

ASEAN Secretariat. (2020, April). ASEAN Secretariat Information Paper. https://asean. org/storage/2012/05/Overview-of-ASEAN-China-Relations-22-Apr-2020-00000002. pdf.

Chakravorty, P. K. (2019, March 11). Status of India-Vietnam Strategic Cooperation. Bharat Shakti. https://bharatshakti.in/status-of-india-vietnam-strategic-cooperation.

Mishra. (2021, February 2). Xi calls for strengthened Vietnam ties. https://www. chinadaily.com.cn/a/202102/01/WS601735b9a31024ad0baa6485.html

Dinh, H., & Yamaguchi, M. (2020, October 20). Japan and Vietnam agree to boost defense ties, resume flights.

Business Standard. https://www.business-standard.com/ article/international/japan-vietnam-agree-to-boost-defense-ties-amid-rising-chinainfluence-120101900295_1.html

Economic Times. (2018, July 11). Report of BrahMos sale to Vietnam incorrect: Government. https://economictimes.indiatimes.com/news/defence/report-of-brahmossale-to-vietnam-incorrect-government/articleshow/60123963.cms?from=mdr

Economic Times. (2020a, October 19). Japan, Vietnam Agree to Boost Defense Ties In Face of China’s Expanding Influence. https://economictimes.indiatimes.com/news/defence/japan-vietnam-agree-to-boost-defence-ties-in-face-of-chinas-expanding-influence/ articleshow/78745999.cms

Economic Times. (2020b, December 22).Vietnam is a key pillar of India’s Act East policy and a vital partner in its Indo-Pacific Vision. https://economictimes.indiatimes.com/ news/economy/foreign-trade/vietnam-important-partner-in-indias-indo-pacificvision-pm-modi/articleshow/79840868.cms?utm_source=contentofinterest&utm_ medium=text&utm_campaign=cppst

Grossman, D. (2020, August, 5). What does Vietnam think of America’s Indo-Pacific strategy? Japan Times. https://www.japantimes.co.jp/opinion/2020/08/05/commentary/ world-commentary/vietnam-us-indopacific-strategy/

Hung, N. M. (2016). New context of Vietnam’s national security challenges (Trends in Southeast Asia) (pp. 24–27). ISEAS-Yusof Ishak Institute.

Khanh Vu, P. N. (2021, January 21). Wanted: Communist Party leadership to keep Vietnam in sweet spot amid U.S.-China tensions. https://www.reuters.com/article/us-vietnampolitics-congress-idUSKBN29Q0ES Minh, P. B. (2014, May 6). Building strategic, comprehensive partnerships—Viet Nam’s soft power. Communist Review. http://english.tapchicongsan.org.vn/Home/ commentary/2014/800/Building-strategiccomprehensive-partnerships-Viet-Namssoft-power.aspx

Ministry of External Affairs, Government of India. (2016, September 3). Joint statement between India and Vietnam during the visit of Prime Minister to Vietnam. https://www. mea.gov.in/bilateral-documents.htm?dtl/27362/Joint+Statement+between+India+and +Vietnam+during+the+visit+of+P

Ministry of External Affairs, Government of India. (2018, November 21). India-Vietnam joint statement during state visit of President to Vietnam. https://www.mea.gov.in/ bilateral-documents.htm?dtl/30615/IndiaVietnam_Joint_Statement_during_State_ Visit_of_President_to_Vi

Ministry of External Affairs, Government of India. (2019, July 11). Question No.2100 disputes in South China Sea. https://mea.gov.in/rajya-sabha.htm?dtl/31592/QUESTIO N+NO2100+DISPUTES+IN+SOUTH+CHINA+SEA

Ministry of External Affairs. (2020a, February 7). Indo-Pacific division briefs. https://mea. gov.in/Portal/ForeignRelation/Indo_Feb_07_2020.pdf

Ministry of External Affairs. (2020b, October 6). Opening remarks by EAM at 2nd Quad ministerial meeting in Tokyo, Japan. Speeches and Statements.

Government of India. https://mea.gov.in/Speeches-Statements.htm?dtl/33097/

Ministry of Foreign Affairs, Japan. (2021). Japan-Vietnam relations. https://www.mofa. go.jp/region/asia-paci/vietnam/data.html.

Ministry of Foreign Affairs, Socialist Republic of Vietnam. (2017, September 1), Regular press conference. http://www.mofa.gov.vn/en/tt_baochi/pbnfn/ns170818145944/

 Ministry of National Defence (White Paper), Socialist Republic of Viet Nam. (2019). 2019 Vietnam National Defence White Paper (p. 29). National Political Publishing House.

Mishra, R. (2013a, September 2). Vietnam-US rapprochement: A new phase. IDSA.https:// idsa.in/idsacomments/VietnamUSRapprochement_rmishra_020913

Mishra, R. (2013b). China in India’s Southeast Asia strategy. In A. K. Das (Ed.), IndiaASEAN Defence Relations (pp. 96–123). S. Rajaratnam School of International Studies.

Mishra, R. (2014, January 20). India-Vietnam: New waves of strategic engagement. ICWA Issue Brief. https://www.academia.edu/5819844/India_Vietnam_New_Waves_of_ Strategic_Engagement

Mishra, R. (2019, August). India and the Philippines time to go beyond the ASEAN framework. RSIS Policy Brief. S. Rajaratnam School of International Studies, Nanyang Technological University, Singapore. https://www.rsis.edu.sg/rsis-publication/idss/indiaand-the-philippines-time-to-go-beyond-the-asean-framework/#.YDKRhXkRXIU

Mishra, R. (2021). Rules-based’ order in the post-unipolar world. Perspectives, Asialink, University of Melbourne. https://asialink.unimelb.edu.au/stories/rules-based-order-inthe-post-unipolar-world

Mohan, C. R. (2007, July 9). The importance of being Vietnam. The Indian Express. http:// www.indianexpress.com/news/the-importance-of-being-vietnam-/204292/1

Muni, S.D., & Mishra, R. (2019). India’s eastward engagement from antiquity to Act East policy. Sage Publications.

Pant, H. (2018, April). India-Vietnam: A strategic partnership in the making. S. Rajaratnam School of International Studies, Policy Brief. https://www.rsis.edu.sg/rsis-publication/idss/india-and-vietnam-a-strategic-partnership-in-the-making/#.YDaS6XkRXIU

 Prime Minister’s Office, Government of India. (2020, December 21). India–Vietnam joint vision for peace, prosperity and people. https://pib.gov.in/PressReleaseIframePage. aspx?PRID=1682468.

Quang Dy, N. (2020, June 2). Vietnam may turn threats into opportunity. YaleGlobal Online. https://yaleglobal.yale.edu/content/vietnam-may-turn-threats-opportunity

South China Morning Post. (2019, May 16). Chinese companies moving to Vietnam keep quiet on trade war to avoid wrath of authorities and staff. https://www.scmp.com/economy/china-economy/article/3010530/chinese-companies-moving-vietnam-keepquiet-trade-war-avoid

Times of India. (2018, November 15). As Quad meets, Vietnam ambivalent about the group. https://timesofindia.indiatimes.com/india/as-quad-meets-vietnam-ambivalentabout-the-group/articleshow/66637725.cms

Times of India. (2021, January 7). India draws up nations’ list for Akash, Brahmos export. https://timesofindia.indiatimes.com/india/india-draws-up-nations-list-for-akashbrahmos-export/articleshow/80144307.cms

USNI News. (2016, June 1). India set to sell super sonic anti-ship cruise missile to Vietnam.https://news.usni.org/2016/06/01/india-set-sell-super-sonic-anti-ship-cruisemissile-vietnam-china-upset

VN Express. (2021, January 21). Vietnam becomes 6th largest trading partner for China. https://e.vnexpress.net/news/business/economy/vietnam-becomes-6th-largest-trading-partner-for-china-4222982.html

 

Nguồn: Vietnam’s Regional Security Perceptions and Priorities: Role of India,  (https://doi.org/10.1177/09749284211004983)

Nguồn:

Viết bình luận

Bình luận

Cùng chuyên mục