Kế hoạch thúc đẩy quan hệ đối tác an ninh năng lượng Ấn Độ - Mỹ

Ấn Độ và Mỹ đã tăng cường hợp tác song phương trong hai thập kỷ qua, được xây dựng trên nền tảng các giá trị và lợi ích chung về an ninh, thịnh vượng kinh tế, thương mại và đầu tư.
Trong tuyên bố chung nhân chuyến thăm Washington của Thủ tướng Narendra Modi vào tháng 2 năm 2025, hai nước tái khẳng định cam kết hợp tác song phương, đưa ra Hiệp ước Mỹ - Ấn Độ thế kỷ 21, nhấn mạnh đến an ninh năng lượng, các công nghệ mới nổi quan trọng và tăng cường thương mại. Các sáng kiến gần đây bao gồm hợp tác về hiệu quả năng lượng và điện, dầu khí có trách nhiệm, bao gồm hydro và nhiên liệu sinh học, pin, đưa Ấn Độ thành Đối tác an ninh khoáng sản (MSP), INDUS-Innovation, sáng kiến về Công nghệ quan trọng và mới nổi (iCET) và gần đây hơn là Sáng kiến TRUST (Chuyển đổi mối quan hệ bằng công nghệ chiến lược) xuyên suốt các lĩnh vực chiến lược bao gồm quốc phòng và hàng không vũ trụ. Năm 2025–2026 sẽ vẫn là giai đoạn quan trọng để duy trì và mở rộng các nỗ lực song phương, xây dựng dựa trên các mục tiêu chung về chính sách công nghiệp và an ninh năng lượng.
Mỹ và Ấn Độ gần đây đã bày tỏ ý định tăng khối lượng thương mại song phương lên 500 tỷ đô la vào năm 2030, đòi hỏi tăng trưởng hai chữ số trong năm năm tới. Sau thông báo này, cả hai nước đã thực hiện các bước để đàm phán một hiệp định thương mại song phương. Thương mại song phương ước tính đạt khoảng 129,2 tỷ đô la vào năm 2024, ghi nhận tốc độ tăng trưởng kép hàng năm mạnh mẽ là 9,5% kể từ năm 2016. Kể từ năm 2016, Ấn Độ đã chứng kiến hoạt động thương mại năng lượng ngày càng tăng với Mỹ, chủ yếu là nhập khẩu, đạt đỉnh ở mức 14,7 tỷ đô la vào năm 2022, chiếm 28% tổng lượng nhập khẩu của Ấn Độ từ Mỹ.
Hình 1: Chỉ số thương mại Mỹ-Ấn Độ từ năm 2016–2023

Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên cơ sở dữ liệu UN COMTRADE, sử dụng mã hàng hóa HS 2709, 2711. Tổng thương mại và thương mại năng lượng giữa Mỹ và Ấn Độ từ năm 2016 đến năm 2023, được lập chỉ mục theo khối lượng thương mại năm 2019.
An ninh năng lượng được coi là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế và rất quan trọng đối với an ninh quốc gia. Điều thú vị là cả hai quốc gia đều chứng kiến mức giảm 35-40% về cường độ năng lượng trên toàn nền kinh tế trong giai đoạn 2000–2022 và có tỷ lệ năng lượng tái tạo tương tự trong sản xuất điện là khoảng 22% (tính đến năm 2022). Về mức tiêu thụ năng lượng cuối cùng, khoảng 54,4% đến từ than, dầu và khí đốt tự nhiên ở Ấn Độ, trong khi con số này chiếm khoảng 72,2% ở Mỹ. Ấn Độ vẫn là nước nhập khẩu năng lượng ròng (khoảng 36% tổng nguồn cung năng lượng) so với Mỹ là nước xuất khẩu năng lượng ròng (khoảng 8% tổng sản lượng năng lượng).
Nhóm nghiên cứu Mỹ tại cơ quan nghiên cứu người quan sát Ấn Độ (ORF Mỹ) đã tổ chức một loạt các hội thảo kín, chỉ dành cho khách mời với các chuyên gia về năng lượng và khí hậu của Ấn Độ và Mỹ, để hiểu rõ hơn về các cơ hội khả thi để Mỹ hợp tác với Ấn Độ. Sau cuộc bầu cử năm 2024 của Ấn Độ và Mỹ, ORF Mỹ đã theo dõi chặt chẽ các diễn biến chính sách và những thay đổi trong các ưu tiên chiến lược của các chính phủ mới đắc cử. Báo cáo đặc biệt này dựa trên kết quả từ các hội thảo, các thông báo chính sách gần đây và khuyến nghị đề xuất cho Quan hệ đối tác chiến lược về năng lượng và công nghiệp giữa Mỹ và Ấn Độ. Quan hệ đối tác này có thể tận dụng các thế mạnh tương ứng và mối quan hệ song phương để đáp ứng các mục tiêu sau: 1) phát triển và triển khai các công nghệ năng lượng ở quy mô lớn trong và ngoài nước; 2) giảm sự tập trung trong chuỗi cung ứng năng lượng và sản xuất các công nghệ năng lượng mới của tương lai; và 3) tiếp tục củng cố cả cơ sở công nghiệp trong nước và hành lang công nghiệp giữa hai nước.
Giảm tập trung và tăng thương mại hóa trong chuỗi cung ứng công nghệ và năng lượng
Với Đạo luật Giảm lạm phát, Mỹ đã có khoảng 72 gigawatt giờ (GWh) công suất sản xuất pin lithium-ion tính đến năm 2024 và hơn 36.000 tấn (tính đến năm 2023) công suất tái chế pin trong nước thu hút một số khoản đầu tư lớn nhất thế giới. Ấn Độ hiện đang xây dựng công suất sản xuất pin hơn 60 GWh, dự kiến sẽ đi vào hoạt động theo từng giai đoạn từ năm 2027 trở đi. Đến năm 2035, ước tính nhu cầu về pin sẽ vào khoảng 1000-1200 GWh và 160-380 GWh tại Mỹ và Ấn Độ. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ năng lượng đã tập trung vào chuỗi cung ứng pin, bao gồm cả tính khả dụng của các nguyên liệu thô quan trọng.
Nhu cầu toàn cầu đối với các khoáng sản quan trọng như lithium, niken, đồng, than chì và đất hiếm dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2035 so với mức năm 2024 trong kịch bản kinh doanh như thường lệ, với nhu cầu tăng gấp 3 đến 5 lần, trong lộ trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu được đẩy nhanh. Trong bối cảnh này, nhu cầu lithium cho thị trường pin của Ấn Độ và Mỹ dự kiến sẽ tăng gấp 8 lần vào năm 2035 so với mức năm 2024. Các khoáng sản như niken, đồng và than chì cũng có hơn một nửa nhu cầu đến từ các ngành công nghiệp cơ bản bao gồm cơ sở hạ tầng và thép, tạo thành nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế. Cả Mỹ và Ấn Độ đều là những nước nhập khẩu ròng các khoáng sản quan trọng.
Bối cảnh toàn cầu về những khoáng sản chính yếu, mặc dù bắt nguồn từ bối cảnh công nghệ chuyển đổi năng lượng và sản xuất, đã mở rộng sang các lĩnh vực chiến lược khác như quốc phòng, hàng không vũ trụ và điện tử giá trị cao, bao gồm chất bán dẫn, càng làm nổi bật tầm quan trọng của khoáng sản chính yếu như là nguyên liệu đầu vào có mục đích sử dụng kép.
Sẽ cần chiến lược hai mũi nhọn để đảm bảo nguồn nguyên liệu thô cần thiết từ thị trường toàn cầu cho nhu cầu ngắn hạn và trung hạn trong 5-10 năm tới, trong khi họ tiếp tục phát triển các nguồn tài nguyên trong nước tiềm năng có thể đáp ứng nguồn cung dài hạn, ngay cả khi thời hạn cấp phép được đẩy nhanh. Trong quá trình thảo luận, các chuyên gia đã định hình sự xuất hiện và khả năng khai thác của các khoáng sản quan trọng là một phần không thể thiếu của một cuộc cách mạng công nghiệp mới. Trong bối cảnh này, điều quan trọng là phải làm nổi bật bốn lĩnh vực: lập bản đồ tài nguyên, chế biến và tinh chế, phát triển công nghệ và tái chế. Cả Mỹ và Ấn Độ đều có các chiến lược khoáng sản quan trọng, với việc Ấn Độ công bố Sứ mệnh Khoáng sản Quan trọng Quốc gia (NCMM) vào tháng 2 năm 2025, có nhiều mục tiêu chồng chéo, bao gồm đẩy nhanh các dự án thăm dò khoáng sản trong nước và tái chế.
Những người tham gia từ chính phủ Mỹ nhấn mạnh rằng, Ấn Độ là một trong số ít đối tác đáng tin cậy có thể giúp phá vỡ sự thống trị của Trung Quốc trong sản xuất năng lượng sạch và các ngành công nghiệp chiến lược, bao gồm pin, máy điện phân và pin mặt trời, cũng như các đầu vào trung gian như vật liệu tinh chế hoặc đã qua chế biến. Những người tham gia từ cả hai nước đều nhất trí rằng, việc ưu tiên đa dạng hóa khỏi Trung Quốc nên là một nỗ lực song phương quan trọng, bên cạnh việc tăng cường hợp tác song phương. Những người tham gia hội thảo tại New Delhi, vừa biểu hiện những cảm xúc tương tự, vừa nhấn mạnh rằng, quan hệ đối tác song phương cũng nên xác định các công nghệ thế hệ tiếp theo tạo ra lợi thế so sánh, một mục tiêu phù hợp với chương trình iCET song phương trước đó và sáng kiến TRUST (Chuyển đổi mối quan hệ sử dụng công nghệ chiến lược) mới được công bố của Mỹ - Ấn Độ. Quan hệ đối tác nghiên cứu mới được công bố giữa Quỹ nghiên cứu quốc gia Anusandhan tại Ấn Độ và Quỹ khoa học quốc gia Mỹ có thể đóng vai trò chiến lược trong việc thúc đẩy các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) chung.
Về các khoáng sản cụ thể cần sự quan tâm song phương hơn nữa, hội thảo Washington nhấn mạnh rằng, cả Mỹ và Ấn Độ đều phụ thuộc vào nhập khẩu trên toàn bộ chuỗi giá trị khoáng sản. Một ví dụ như vậy là than chì, được nêu bật là một lựa chọn khả thi để mở rộng hoạt động thương mại khoáng sản quan trọng giữa Mỹ và Ấn Độ. Một chuyên gia chỉ ra rằng, tính đến năm 2023, Mỹ đã nhập khẩu 48%than chì từ Trung Quốc với chi phí cao hơn giá xuất khẩu than chì của Ấn Độ. Các vật liệu như than chì được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, từ thép đến hàng tiêu dùng đến pin, và do đó, ngay cả khi than chì có nguồn gốc từ Ấn Độ có thể cung cấp cho các lĩnh vực công nghệ không sạch (với chất lượng quặng của nó) tại Mỹ, thì nó cũng có thể làm giảm một phần áp lực giá hàng hóa. Một chiến lược xác định sự phụ thuộc vào khoáng sản và cách tiếp cận đa dạng hóa nguồn cung ứng trên toàn nền kinh tế có thể có lợi cho cả hai quốc gia. Các chuyên gia tại hội thảo Mỹ cũng nhấn mạnh rằng, trong số mười hai loại khoáng sản quốc phòng chiến lược của Mỹ, mười trong số đó cũng trùng lặp với các ưu tiên của Ấn Độ, trong khi nhìn chung, có mười chín loại khoáng sản trùng lặp trong danh sách khoáng sản quan trọng của hai quốc gia.
Trong khi việc phát triển các dự án khai thác khoáng sản thượng nguồn có thể có thời gian thai nghén dài hơn, thì việc phát triển năng lực tinh chế khoáng sản quan trọng có thể đạt được tương đối nhanh hơn ở cả hai quốc gia. Những người tham gia hội thảo Washington bày tỏ rằng, quan hệ đối tác song phương cũng có thể đánh giá khả năng phát triển các cơ sở tinh chế chung ở Đông Nam Á và Châu Phi, vượt ra ngoài năng lực trong nước của mỗi nước. Tuy nhiên, khoáng sản do Ấn Độ khai thác và chế biến hoặc do công ty Ấn Độ khai thác hiện không tuân thủ Đạo luật Giảm lạm phát (IRA), đạo luật này yêu cầu một thỏa thuận khoáng sản quan trọng song phương có thể biến Ấn Độ thành đối tác chiến lược tuân thủ về mặt hoạt động.
Trong cả hai hội thảo ở New Delhi và Washington, những người tham gia đã thảo luận về các nỗ lực chính sách công nghiệp ở hai quốc gia, nhấn mạnh vào việc tập trung sản xuất trong nước thông qua các biện pháp chính sách khác nhau đòi hỏi các yêu cầu cao hơn về hàm lượng trong nước. Tuy nhiên, cả hai quốc gia sẽ phải dựa vào hợp tác quốc tế để đảm bảo rằng, họ vẫn có khả năng cạnh tranh và tiếp cận thị trường trong khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Bất chấp một số căng thẳng về thương mại và kinh tế, Mỹ và Ấn Độ có những lợi thế so sánh tạo ra cơ hội để xây dựng một hành lang công nghiệp khoáng sản quan trọng, chủ yếu là do chi phí vốn và lao động khả thi ở Ấn Độ, cũng như năng lực khoa học tiên tiến ở cả hai quốc gia. Hơn nữa, những nỗ lực như Sáng kiến phục hồi chuỗi cung ứng của Ngân hàng EXIM Mỹ, cung cấp tài chính có mục tiêu để phát triển các dự án khoáng sản quan trọng từ các đối tác đáng tin cậy, có thể được Ấn Độ tận dụng.
Tháng 1 năm 2025, Bộ Quốc phòng Mỹ đã thành lập Ban Vật liệu Chiến lược và Quan trọng, bao gồm các thành viên từ các bộ khác, bao gồm Năng lượng, Ngoại giao, Thương mại và Nội vụ, để đảm bảo tiếp cận an toàn và bền vững với vật liệu và khoáng sản và xác định các giải pháp sáng tạo cho các thách thức phức tạp của cơ sở công nghiệp. Để có một quan hệ đối tác thành công, Ấn Độ cũng cần xem xét khuôn khổ thể chế về khoáng sản quan trọng để đảm bảo sự tham gia và thực hiện hiệu quả.
Trong khi cả hai nước tập trung vào việc phát triển các cơ sở công nghiệp trong nước có thể cắt ngang chuỗi giá trị để cải thiện khả năng cạnh tranh của họ, năm lĩnh vực hợp tác song phương chính nổi lên về khoáng sản quan trọng và chuỗi cung ứng:
- Thúc đẩy lập bản đồ tài nguyên thông qua sự hợp tác giữa Cục Khảo sát Địa chất Mỹ và Cục Khảo sát Địa chất Ấn Độ
- Triển khai chung vốn vào các tài sản khoáng sản và cơ sở lọc dầu tại thị trường trong nước và quốc tế
- Quan hệ đối tác công nghệ để sản xuất và tái chế pin, dựa trên Sáng kiến Phục hồi Khoáng sản Chiến lược
- Hợp tác quốc tế thông qua các nền tảng đa phương, bao gồm MSP và Quad, để đảm bảo đa dạng hóa chuỗi cung ứng
- Các phương pháp tiếp cận theo dõi và truy vết chung để xác định các lĩnh vực dễ bị tổn thương, cơ hội đầu tư và phát triển công nghệ.
Mở rộng mối quan hệ trong ngành công nghiệp ô tô và phát triển công nghệ
Mỹ và Ấn Độ là những trung tâm ô tô lớn và là thị trường lớn thứ hai và thứ ba thế giới. Những tiến bộ về công nghệ sẽ là chìa khóa để duy trì khả năng cạnh tranh toàn cầu của ngành ô tô ở cả hai quốc gia. Điều này khiến ngành ô tô giữa hai nước trở thành lĩnh vực hợp tác tiềm năng quan trọng và nên là một phần của các cuộc thảo luận thương mại đang diễn ra.
Trước đây, các hãng sản xuất ô tô lớn của Mỹ như Ford, General Motors và Navistar đã có những khoản đầu tư chiến lược vào thị trường Ấn Độ, trong khi các công ty Ấn Độ như Mahindra & Mahindra Ltd. và Tata Sons đã thâm nhập vào Mỹ, trong đó Mahindra & Mahindra có Trung tâm Kỹ thuật Bắc Mỹ đặt tại Michigan.
Ngoài sản xuất xe, hoạt động thương mại linh kiện ô tô giữa hai nước cũng rất mạnh mẽ. Trong khi 27% tổng kim ngạch xuất khẩu linh kiện ô tô của Ấn Độ là sang Mỹ (tính đến năm 2024), Ấn Độ vẫn là đối tác thương mại lớn thứ 9 trong lĩnh vực này với Mỹ. Trong khi khoảng một nửa kim ngạch nhập khẩu linh kiện vào Mỹ đến từ Mexico và Canada, Ấn Độ vẫn là một đối tác quan trọng trong ngành công nghiệp ô tô Mexico, với 6% kim ngạch xuất khẩu linh kiện từ Ấn Độ, cũng như hầu hết các nhà sản xuất linh kiện lớn của Ấn Độ đều có nhà máy tại Mexico, qua đó gián tiếp phục vụ cho thị trường ô tô Mỹ.
Hơn nữa, cả hai thị trường đều dự kiến sẽ tiếp tục chứng kiến doanh số bán xe điện (EV), tăng cường cơ hội hợp tác công nghệ và đầu tư vào EV, linh kiện EV và thiết bị điện tử. Mỹ đã xây dựng năng lực mạnh mẽ xung quanh hệ thống truyền động EV điện áp cao kể từ năm 2021, trong khi Ấn Độ đã thể hiện năng lực của mình trong đổi mới và tối ưu hóa chi phí. Phát triển cơ sở hạ tầng để sạc EV cũng vẫn là một lĩnh vực hợp tác quan trọng, với việc Mỹ đã triển khai các chính sách tiên tiến.
Hợp tác song phương gần đây trong lĩnh vực vận tải đường bộ chủ yếu xoay quanh vấn đề di chuyển bằng điện, thông qua hỗ trợ kỹ thuật thúc đẩy việc áp dụng EV, triển khai xe buýt điện và đánh giá bối cảnh đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi cho dòng vốn chảy vào lĩnh vực di chuyển bằng điện. Đối với giai đoạn tiếp theo của việc triển khai di chuyển bằng điện, những người tham gia hội thảo tại Mỹ đã hướng đến lĩnh vực vận tải bằng xe tải, nơi nhiều công ty hậu cần toàn cầu đang chuyển đổi đội xe tải của họ ở cả hai quốc gia, với các nhà sản xuất thiết bị gốc ô tô đang đầu tư đáng kể vào công nghệ điện, pin nhiên liệu và động cơ đốt trong hydro (ICE).
Khi các chính quyền địa phương tại Mỹ tiếp tục triển khai xe buýt điện và xe buýt phát thải thấp cho xe buýt quá cảnh và xe buýt trường học, năng lực sản xuất trong nước còn hạn chế, tạo cơ hội cho các nhà sản xuất xe buýt điện Ấn Độ cân nhắc đầu tư vào Mỹ. Nỗ lực của Tổng công ty Phát triển Kinh tế Michigan (MEDC), đơn vị xúc tiến đầu tư của chính quyền tiểu bang, nhằm đưa nhiều doanh nghiệp Ấn Độ hơn đến tiểu bang, bao gồm cả lĩnh vực ô tô, là một ví dụ điển hình.
Các bên liên quan của hội thảo Mỹ đã nhất trí rằng, các chính sách công nghiệp đầy tham vọng có thể và nên được điều chỉnh để hỗ trợ cho trụ cột hợp tác này xung quanh ngành công nghiệp ô tô và phát triển công nghệ, bao gồm e-mobility, nhiên liệu thay thế, hydro và các công nghệ mới nổi khác, để đảm bảo rằng, các lĩnh vực tương ứng ở cả hai quốc gia tiếp tục duy trì khả năng cạnh tranh toàn cầu. Điều này có ý nghĩa hơn nữa, đặc biệt là khi đối mặt với các sản phẩm ô tô cạnh tranh về giá của Trung Quốc, cụ thể là xuất khẩu xe điện sang các thị trường toàn cầu.
Dựa trên các cuộc thảo luận, các lĩnh vực hợp tác chính bao gồm:
- Mở rộng sản xuất ô tô ở cả hai quốc gia, bao gồm liên doanh, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các công ty Mỹ và Ấn Độ.
- Tiếp cận và phát triển công nghệ cho các công nghệ ô tô tiên tiến, bao gồm xe điện, pin nhiên liệu hydro và hệ thống truyền động ICE hydro cho xe tải, công nghệ hỗ trợ lái xe tiên tiến (ADAS), cùng nhiều công nghệ khác.
- Mở rộng hợp tác vận tải để bao gồm các lĩnh vực hàng không và vận tải biển, bao gồm nhiên liệu hàng không và hàng hải bền vững, máy bay không người lái, máy bay VTOL, v.v.
Thúc đẩy phát triển nhiên liệu mới nổi, bao gồm Hydro và hạt nhân
Khi cả hai quốc gia xem xét các mục tiêu an ninh năng lượng, một số ưu tiên chung nổi lên: (i) đảm bảo năng lượng đáng tin cậy và giá cả phải chăng cho các lĩnh vực sử dụng cuối; (ii) thúc đẩy độ tin cậy và khả năng phục hồi của lưới điện; và (iii) tăng tỷ trọng điện hạt nhân trong hỗn hợp. Trong trường hợp của Ấn Độ, ba chiến lược chính trong lộ trình an ninh năng lượng của nước này bao gồm:
Mở rộng tỷ trọng khí đốt tự nhiên trong cơ cấu năng lượng từ mức 6% hiện nay lên 15%. Sản xuất trong nước 5 triệu tấn (MMT) hydro xanh vào năm 2030 Công suất điện hạt nhân lắp đặt 100 gigawatt (GW) vào năm 2047, tập trung vào các lò phản ứng mô-đun nhỏ.
Khí đốt tự nhiên sẽ đóng vai trò chủ chốt trong lộ trình an ninh năng lượng của Ấn Độ trong tương lai gần. Khi Ấn Độ tìm cách tăng thị phần khí đốt tự nhiên, họ sẽ tiếp tục dựa vào nhập khẩu, điều này bổ sung cho chính sách của Mỹ về việc mở rộng xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG). Nhu cầu khí đốt tự nhiên của Ấn Độ đã tăng 10% hàng năm vào năm 2024, do cơ sở hạ tầng mở rộng nhanh chóng, đặc biệt là đối với các khu dân cư và giao thông vận tải. Kể từ năm 2019, số lượng trạm khí đốt tự nhiên nén (CNG) phục vụ giao thông đã tăng gấp bốn lần, trong khi số lượng kết nối khí đốt dân dụng đã tăng hơn gấp đôi, với động lực hướng tới giao thông đô thị sạch và tiếp cận nhiên liệu nấu ăn sạch. Đến năm 2030, số lượng trạm CNG và kết nối dân dụng sẽ tăng gần gấp đôi, bao gồm cả việc mở rộng 50% lưới truyền tải khí đốt.
Nhập khẩu năng lượng của Ấn Độ từ Mỹ đã liên tục tăng từ năm 2016, chủ yếu là do LNG, đạt đỉnh vào năm 2022. Ấn Độ và Mỹ đã tái khẳng định cam kết của họ đối với việc tăng cường thương mại năng lượng bao gồm khí đốt tự nhiên và đầu tư vào cơ sở hạ tầng liên quan đến khu vực tư nhân ở cả hai nước. Với việc Ấn Độ ngày càng thúc đẩy cơ sở hạ tầng khí đốt và tiềm năng nhu cầu, Mỹ có thể nổi lên như một nhà cung cấp năng lượng chiến lược cho Ấn Độ, với sự an ninh lâu dài về cả nguồn tài nguyên cũng như giá cả.
Khí đốt tự nhiên có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Ấn Độ khi nước này tìm cách mở rộng quy mô sản xuất hydro. Ngoài mục tiêu sản xuất hydro xanh 5 triệu tấn của Ấn Độ vào năm 2030, nước này còn đặt mục tiêu trở thành nước xuất khẩu hydro xanh. Nhu cầu về hydro đang tăng đều đặn trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm các ngành công nghiệp, cảng, sản xuất thép và vận tải, đặc biệt là các ngành hàng hải và hàng không. Tuy nhiên, hydro vẫn là một ngành công nghiệp mới ra đời và có những thách thức bao gồm chi phí cao đối với người dùng cuối và thiếu cơ sở hạ tầng đầy đủ.
Các chuyên gia nhất trí rằng, sản xuất hiệu quả, mạng lưới phân phối và thị trường toàn cầu phải được tận dụng để kết hợp các công nghệ hydro ở quy mô lớn. Các chuyên gia nhất trí rằng, việc tận dụng năng lượng sạch giá rẻ ở cả Mỹ và Ấn Độ có thể giúp giảm chi phí cung cấp điện trong chu kỳ sản xuất. Di chuyển sản xuất hydro gần hơn với các khu vực tiêu thụ là một giải pháp khác để giảm chi phí và là một chiến lược rõ ràng trong ngắn hạn. Hydro cho giao thông vẫn chưa chắc chắn do chi phí thấp hơn của xe điện chạy bằng pin và xe ICE thông thường, và sự không đáng tin cậy hiện tại trong cơ sở hạ tầng hydro.
Mỹ hiện có công suất sản xuất hydro hàng năm khoảng 10 MMT, phần lớn hiện là hydro xám, được sản xuất từ khí tự nhiên, sử dụng phương pháp cải cách khí mê-tan bằng hơi nước. Phương pháp này thải ra khoảng 3-5 kg CO2e trên mỗi kilôgam (kg) hydro được sản xuất, so với ngưỡng hydro xanh là dưới 1 kg CO2e. Trong trường hợp của Ấn Độ, định nghĩa về hydro xanh được đặt ở mức không quá 2 kg CO2e trên mỗi kilôgam hydro được sản xuất. Các ngưỡng này rất quan trọng vì chúng đưa ra hiểu biết rõ ràng về tiềm năng hợp tác hydro giữa hai quốc gia. Khi Ấn Độ tìm cách mở rộng quy mô triển khai hydro, một lộ trình tiết kiệm chi phí sẽ bao gồm sự kết hợp giữa hydro xám và xanh trong tương lai gần đến trung hạn. Với ngưỡng hydro xanh tương đối ít nghiêm ngặt hơn của Ấn Độ, vai trò của sản xuất hydro từ khí tự nhiên sẽ rất đáng kể, làm tăng nhu cầu về khí tự nhiên. Điều này mang lại sự hội tụ hợp tác độc đáo về cả khí tự nhiên và hydro giữa hai quốc gia.
Trước năm 2025, hai nước đã hợp tác theo Nền tảng hành động công nghệ năng lượng tái tạo (RETAP) để đạt được mục tiêu tương ứng là giảm chi phí hydro xanh. Trong tương lai, thay vì tích hợp hydro trên khắp các lĩnh vực, các chuyên gia nhấn mạnh rằng, việc triển khai nên tập trung vào một số ngành công nghiệp nhất định như thép, amoniac và phân bón. Ví dụ, các nhà sản xuất thép Ấn Độ đang tích cực khám phá sản xuất thép xanh để duy trì khả năng cạnh tranh và tuân thủ các-bon trên thị trường toàn cầu, đặc biệt là với thông báo về phân loại thép xanh của Bộ Thép Ấn Độ. Chi phí điện phân ở Ấn Độ rẻ hơn đáng kể so với ở Mỹ và một chuyên gia cho rằng, nên khai thác quan hệ đối tác hiện tại giữa Mỹ và Ấn Độ để mở rộng hoạt động sản xuất ở cả hai quốc gia. Lưu trữ lưới điện dài hạn là một trường hợp sử dụng khả thi khác cho hydro, mặc dù nhu cầu về hydro sẽ không phát sinh trong một thập kỷ nữa. Hydro là một phần quan trọng trong câu chuyện nhiên liệu toàn cầu, với các khoản đầu tư đáng kể từ ngành dầu khí, nhưng điều bắt buộc là phải tiếp tục tập trung vào nghiên cứu và phát triển trước khi triển khai trên diện rộng trên khắp các lĩnh vực.
Năng lượng hạt nhân tương đối trì trệ ở Ấn Độ với khoảng 1,2% tổng nguồn cung cấp năng lượng, so với 9,8% ở Mỹ. Ấn Độ đã công bố Sứ mệnh năng lượng hạt nhân đầy tham vọng vào tháng 2 năm 2025, với mục tiêu đạt được 100 GW công suất điện hạt nhân đã lắp đặt vào năm 2047, tập trung vào nghiên cứu và phát triển Lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR). Mỹ luôn tập trung vào năng lượng hạt nhân như một phần quan trọng trong chiến lược an ninh năng lượng của mình, khởi động Chương trình R&D SMR tiên tiến vào năm 2019. Sau một thời gian dài gián đoạn, điều này mở ra một cơ hội chiến lược cho hợp tác Mỹ-Ấn Độ về năng lượng hạt nhân, bao gồm đầu tư của khu vực tư nhân và cấp phép công nghệ từ các công ty Mỹ cho Ấn Độ, điều này cũng đã được nhấn mạnh trong tuyên bố chung Mỹ-Ấn Độ vào tháng 2 năm 2025. Dựa trên chương trình iCET Mỹ-Ấn Độ trước đây và sáng kiến TRUST mới, một con đường cụ thể cho hợp tác hạt nhân dân sự sẽ rất quan trọng. Điều này sẽ cho phép hai nước hiện thực hóa toàn bộ tiềm năng của Thỏa thuận hạt nhân dân sự năm 2005, bao gồm các biện pháp cụ thể như sửa đổi Đạo luật trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân năm 2010 của Ấn Độ và việc xóa bỏ các hạn chế đối với các thực thể hạt nhân và xuất khẩu công nghệ của Ấn Độ của Mỹ. Việc Bộ Năng lượng Mỹ chấp thuận cho Holtec International, một công ty Mỹ, chuyển giao công nghệ SMR cho Ấn Độ vào tháng 3 năm 2025 là một bước tiến quan trọng theo hướng đó.
Dựa trên các cuộc thảo luận, những phát hiện chính bao gồm:
- Mở rộng triển khai hydro thông qua sự kết hợp giữa hydro xám và xanh để quản lý chi phí bao gồm ưu tiên các lĩnh vực sử dụng cuối như thép, amoniac và phân bón.
- Tận dụng sản xuất máy điện phân có giá thành cạnh tranh tại Ấn Độ để mở rộng sản xuất ở cả hai quốc gia.
- Thúc đẩy cơ hội chiến lược mới cho hợp tác Mỹ - Ấn Độ về năng lượng hạt nhân, bao gồm đầu tư của khu vực tư nhân và cấp phép công nghệ từ các công ty Mỹ cho Ấn Độ.
- Với động lực ngày càng tăng của Ấn Độ đối với cơ sở hạ tầng khí đốt và tiềm năng nhu cầu, Mỹ có thể nổi lên như một nhà cung cấp năng lượng chiến lược cho Ấn Độ, với sự an toàn lâu dài về cả nguồn tài nguyên cũng như giá cả.
Cung cấp tài chính bằng cách thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân
Các thị trường mới nổi có tiềm năng tăng trưởng kinh tế lớn nhất và, với các nguyên tắc kinh tế ổn định, cung cấp một ngôi nhà hấp dẫn cho đầu tư vốn. Ấn Độ vẫn là một trong những thị trường hấp dẫn nhất về tiềm năng đầu tư, với mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội mạnh mẽ từ 5–7% hàng năm, thu hút hơn 1 nghìn tỷ đô la tích lũy FDI kể từ năm 2000. Ấn Độ xếp thứ 39 trong Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2024, tăng từ vị trí thứ 80 năm 2015 và thứ 40 trong Chỉ số cạnh tranh thế giới năm 2024. Những yếu tố này, cùng với lực lượng lao động lành nghề ngày càng tăng của Ấn Độ, thị trường tiêu dùng lớn và các nguyên tắc kinh tế vĩ mô mạnh mẽ khiến nơi đây trở thành điểm đến đầu tư mạnh mẽ.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2024, FDI từ Mỹ vào Ấn Độ đạt tổng cộng khoảng 69 tỷ đô la, là thị trường hàng đầu cho các công ty Mỹ trong các lĩnh vực như thương mại điện tử, hàng không, đường sắt, viễn thông, chế biến thực phẩm và thiết bị hạng nặng.
Cam kết của Ấn Độ đối với quá trình chuyển đổi năng lượng sạch mang lại tiềm năng thị trường là 1,1 nghìn tỷ đô la. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), nhu cầu tài chính của Ấn Độ để đáp ứng các mục tiêu chuyển đổi năng lượng của mình vào năm 2030 và 2070 là con số khổng lồ 160 tỷ đô la mỗi năm. Các sáng kiến gần đây được công bố trong các chuyến thăm cấp nhà nước, G20, các hội nghị thượng đỉnh Quad (Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản, Úc), Khung kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) và tại các diễn đàn khác đã là những chỉ báo tích cực về tài chính và đầu tư tiếp tục là ưu tiên hàng đầu cho hợp tác song phương và đa phương.
Những người tham gia hội thảo tại Mỹ đã lưu ý một số hướng đi mà chính phủ Mỹ đang theo đuổi để triển khai vốn cho quá trình chuyển đổi năng lượng của Ấn Độ, đặc biệt là thông qua Tập đoàn Tài chính Phát triển Mỹ (DFC). Ấn Độ hiện là thị trường lớn nhất cho DFC ở mức 10% với mức tiếp xúc là 4,3 tỷ đô la, với mục đích tận dụng quá trình chuyển đổi năng lượng sạch, giao thông vận tải và tạo việc làm. Trong số này, 1,6 tỷ đô la được dành cho các dự án năng lượng sạch.
Đặc biệt, các công cụ tài chính của DFC bao gồm các bảo lãnh và cơ chế hỗ trợ để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực thường không có khả năng vay vốn ngân hàng, tức là rủi ro thực tế hoặc rủi ro được nhận thức là quá cao để khu vực tư nhân đầu tư. Sự kết hợp giữa chính sách và cơ chế tài chính đã tạo ra những câu chuyện thành công đáng kể cho xe buýt điện và sản xuất quang điện mặt trời. Những câu chuyện thành công này cung cấp những bài học quan trọng có thể và nên được áp dụng cho các lĩnh vực và công nghệ khác như pin, nhiên liệu thay thế, làm mát hiệu quả và chuỗi cung ứng. Ví dụ, quản lý nhu cầu làm mát ở Ấn Độ thông qua các công nghệ và phần mềm hiệu quả là một cách để quản lý nhu cầu điện tăng đột biến trong nước.
Trong khi những người tham gia hội thảo ở Washington thảo luận về những nỗ lực thông qua DFC như một điểm sáng, những người tham gia ở New Delhi đưa ra đánh giá có cân nhắc hơn về những nỗ lực song phương và đa phương hiện tại. Những người tham gia ở Ấn Độ đồng ý rằng, nhu cầu tài chính của Ấn Độ cho quá trình chuyển đổi năng lượng của nước này lớn hơn nhiều so với các nước đang phát triển khác. Không một quốc gia, chính phủ hay tổ chức nào có thể là nguồn cung cấp tất cả nguồn tài chính này, vì vậy những nỗ lực từ các tổ chức tài chính phát triển như DFC và các ngân hàng phát triển đa phương như Ngân hàng Thế giới tự chúng sẽ không đủ nhưng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro cho dòng vốn tư nhân. Do đó, nguồn tài trợ từ khu vực tư nhân bên ngoài và đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được huy động vào các lĩnh vực chiến lược, đặc biệt là khi dòng vốn trong nước chảy vào Ấn Độ là không bền vững.
Các nỗ lực tài chính song phương hoặc đa phương phải tính đến quy mô và tính phức tạp của Ấn Độ, bao gồm chủ nghĩa liên bang Ấn Độ và sự tham gia của cấp dưới quốc gia. Ví dụ, những người tham gia Ấn Độ đề xuất cả hai chính phủ khám phá các quan hệ đối tác để đảm bảo nguồn tài trợ bảo trợ xã hội cho các khu vực phụ thuộc vào than, đặc biệt là khi năng lượng tái tạo ở Ấn Độ ngày càng rẻ hơn, họ sẽ loại bỏ dần các nguồn năng lượng không tái tạo như nhà máy điện than. Hơn nữa, một lĩnh vực khác cần tăng cường hợp tác là sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước ở Ấn Độ, bao gồm các lĩnh vực ngoài năng lượng tái tạo do tư nhân phát triển và thúc đẩy phần lớn quá trình chuyển đổi năng lượng trong nước, bao gồm khoáng sản, khí đốt tự nhiên, hydrocarbon, hạt nhân, v.v. Về các lĩnh vực mục tiêu để đầu tư, những người tham gia hội thảo tại New Delhi cũng lưu ý rằng, các lĩnh vực năng lượng mặt trời và phương tiện giao thông điện (e-mobility) của Ấn Độ tương đối trưởng thành. Họ nhấn mạnh rằng, các khoản đầu tư mới từ các quỹ công quốc tế nên được chuyển hướng vào các lĩnh vực như lưu trữ năng lượng quy mô lưới điện, điện gió ngoài khơi và hydro xanh cần nhiều sự hỗ trợ hơn từ phía khu vực công để khuyến khích đầu tư tư nhân.
Trong bối cảnh sản xuất, đầu tư và đổi mới năng lượng sạch, những người tham gia hội thảo Washington đã nhất trí rằng, Mỹ phải đánh giá những diễn biến trong khu vực tư nhân Ấn Độ song song với các nỗ lực của chính phủ. Cùng với sự trỗi dậy của các công ty Ấn Độ toàn cầu, hệ sinh thái khởi nghiệp của nước này đang đạt được những bước tiến trong các ngành công nghiệp bao gồm chế biến khoáng sản quan trọng, sản xuất pin, sản xuất hydro và di động điện tử. Mặt khác, Ấn Độ đã sử dụng các chương trình Khuyến khích liên kết sản xuất (PLI) của mình để thúc đẩy đầu tư tư nhân chiến lược vào các lĩnh vực như sản xuất pin, điện tử và linh kiện, năng lượng mặt trời, trong số những lĩnh vực khác, thu hút gần 19 tỷ đô la đầu tư trong giai đoạn 2021–2024. Các bên liên quan đã nhất trí rằng, chương trình này đã có tác động đáng kể trong việc khởi động quá trình chuyển đổi để tạo ra một môi trường thuận lợi nhằm tăng cường đầu tư của khu vực tư nhân.
Do đó, cả hai nước phải tạo ra các kênh để khu vực tư nhân giải quyết những trở ngại và mối quan tâm của họ. Cơ quan Quản lý Thương mại Quốc tế (ITA) đã thực hiện các bước để giải quyết những mối quan tâm như vậy và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác thương mại Mỹ - Ấn Độ. Một lĩnh vực trọng tâm chính của ITA là chuỗi cung ứng năng lượng sạch, đặc biệt là năng lượng mặt trời. Việc cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc của chuỗi cung ứng năng lượng mặt trời Ấn Độ - Mỹ là điều bắt buộc để giảm sự phụ thuộc vào xuất khẩu năng lượng mặt trời của Trung Quốc. Hành động tập thể thông qua các nỗ lực đa phương, bao gồm Úc và Brazil, là cần thiết để giải quyết các vấn đề thượng nguồn có rủi ro cao trong chuỗi giá trị năng lượng mặt trời. Các cơ hội tương tự tồn tại trong các chuỗi cung ứng khoáng sản quan trọng và pin. Với sáng kiến TRUST mới, các lĩnh vực chiến lược như quốc phòng và hàng không vũ trụ cũng mang đến những cơ hội thị trường đáng kể cho đầu tư của khu vực tư nhân và có tiềm năng đẩy nhanh quá trình phát triển và triển khai các công nghệ quan trọng trong tương lai.
Những phát hiện chính của hội thảo bao gồm:
- Mở rộng các cơ hội tài trợ vượt ra ngoài các ngành công nghiệp toàn cầu của Ấn Độ để bao gồm hệ sinh thái khởi nghiệp đang đạt được những bước tiến trong các công nghệ năng lượng quan trọng và mới nổi.
- Khám phá phương tiện đầu tư Mỹ-Ấn Độ mở rộng chương trình Khuyến khích liên kết sản xuất (PLI) để tạo ra hiệu ứng nhân tài chính cho các công nghệ năng lượng quan trọng và mới nổi.
- Cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc của chuỗi cung ứng Ấn Độ-Mỹ để giảm sự phụ thuộc và lỗ hổng.
Con đường phía trước: Quan hệ đối tác chiến lược năng lượng và công nghiệp của Mỹ-Ấn Độ
Dựa trên kết quả của hội thảo, rõ ràng là Mỹ và Ấn Độ có vị thế tốt nhất để tận dụng thế mạnh tương ứng và mối quan hệ song phương của họ nhằm:
1) phát triển và triển khai các công nghệ năng lượng ở quy mô trong và ngoài nước; 2) giảm sự tập trung vào chuỗi cung ứng năng lượng và sản xuất các công nghệ năng lượng mới của tương lai; và 3) tiếp tục củng cố cả cơ sở công nghiệp trong nước và hành lang công nghiệp giữa hai nước.
Để cùng nhau tăng cường các mục tiêu chiến lược, tăng đầu tư của khu vực tư nhân và nắm bắt các cơ hội kinh tế, Mỹ và Ấn Độ nên khởi động Quan hệ đối tác năng lượng và công nghiệp chiến lược Mỹ-Ấn Độ dựa trên hơn 20 năm hợp tác song phương thành công. Sáng kiến này nên ưu tiên ba lĩnh vực chính: (i) đẩy nhanh thương mại hóa các công nghệ chiến lược và chuỗi cung ứng pin; (ii) mở rộng hợp tác và đầu tư vào công nghệ ô tô; (iii) thúc đẩy phát triển các nhiên liệu mới nổi bao gồm hydro và hạt nhân.
Để có mối quan hệ đối tác lâu dài và thành công, chính sách công nghiệp, phát triển công nghệ và khả năng cạnh tranh toàn cầu vẫn là trọng tâm, và để đạt được các mục tiêu đồng thời này sẽ cần một cách tiếp cận bốn hướng:
Nghiên cứu, Phát triển và Đổi mới: quan hệ đối tác này nên định hướng lại các quan hệ đối tác nghiên cứu hiện tại để tập trung vào các công nghệ mới nổi và quan trọng thế hệ tiếp theo bao gồm chuyển sang các hóa chất pin mới, công nghệ ô tô trong tương lai, hydro và SMR hạt nhân. Phản ánh Hệ sinh thái tăng tốc quốc phòng Mỹ-Ấn Độ (INDUS-X) gần đây, việc ra mắt sáng kiến INDUS Innovation nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ đối tác giữa ngành công nghiệp và học viện và thúc đẩy đầu tư cho các lĩnh vực mới và mới nổi bao gồm không gian và năng lượng.
Thương mại và Đầu tư: Tổng kim ngạch thương mại hàng hóa hai chiều giữa Mỹ và Ấn Độ trong lĩnh vực ô tô đạt 3,8 tỷ đô la và 600 triệu đô la trong chuỗi cung ứng pin tính đến năm 2023. Thương mại và đầu tư song phương có tiềm năng định hướng lại chuỗi cung ứng pin khỏi Trung Quốc và có khả năng đáp ứng được tình trạng thâm hụt sản xuất pin trong nước của Mỹ, cũng như mở ra cơ hội chuyển giao công nghệ từ Mỹ sang Ấn Độ. Những nỗ lực cụ thể có thể bao gồm các phái đoàn thương mại, đánh giá khả thi và bảo lãnh xuất khẩu để thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể đã xác định. Hơn nữa, các điều khoản cụ thể trong khuôn khổ thương mại để cho phép chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực chiến lược cũng như dòng chảy của các khoáng sản quan trọng cụ thể và pin tiên tiến, xuất khẩu và nhập khẩu công nghệ hạt nhân, nhiên liệu hydro và máy điện phân, có thể góp phần đáng kể vào việc xây dựng chuỗi cung ứng đa dạng toàn cầu cho cả hai quốc gia.
Quan hệ đối tác công tư: Theo quan hệ đối tác song phương, việc thành lập một lực lượng đặc nhiệm pin Mỹ-Ấn Độ cụ thể, tập hợp các công ty lớn trong ngành công nghiệp Mỹ và Ấn Độ cùng với cả chính phủ, các nhóm thương mại và xã hội dân sự, có thể đóng vai trò thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược và các khoản đầu tư cần thiết để hiện thực hóa ba trụ cột còn lại. Ấn Độ có thể cung cấp một trung tâm khu vực thay thế cho sản xuất pin lithium-ion và linh kiện phụ trợ tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Ngoài ra, các hướng cụ thể về hợp tác trong ngành ô tô và nhiên liệu thay thế (bao gồm hydro và hạt nhân) sẽ củng cố hợp tác song phương, mở ra các cơ hội thị trường mới. Trong bối cảnh quan hệ đối tác như vậy, việc tận dụng các cơ chế thể chế hiện có giữa hai nước có thể giúp đẩy nhanh tiến độ, dẫn đến những kết quả hữu hình trong thời gian tới.
Tài chính: Ngoài việc tận dụng các công cụ tài chính từ DFC Mỹ, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ và Cơ quan Thương mại và Phát triển Mỹ (USTDA) để thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân, hai nước cũng có thể thiết lập một chương trình Tài chính cho các lĩnh vực chiến lược, nhằm tập hợp các tổ chức tài chính và nhà đầu tư tư nhân ở cả hai nước theo định kỳ để xác định rõ danh mục các dự án đầu tư tiềm năng, ưu tiên các lĩnh vực đã xác định.
Quan hệ đối tác chiến lược về năng lượng và công nghiệp giữa Mỹ và Ấn Độ có tiềm năng chuyển đổi hợp tác song phương và phát triển hợp tác khu vực tư nhân. Do đó, cần phải phá vỡ các quan hệ đối tác hiện tại và trong quá khứ giữa Mỹ và Ấn Độ, đồng thời xác định các mục tiêu dài hạn và các biện pháp trong nước tiềm năng có thể cản trở các sáng kiến ở cấp độ hoạt động. Quan hệ đối tác cần tính đến những rủi ro và điểm yếu này từ cả hai quốc gia và bảo vệ chống lại chúng trong kịch bản dài hạn. Xây dựng lòng tin là điều cần thiết và cả hai quốc gia cần thực hiện các bước để đảm bảo tính liên tục của chính sách và xây dựng hướng tới quan hệ đối tác dài hạn đa chiều vượt qua căng thẳng địa chính trị ngắn hạn. Cuối cùng, trong khi các mục tiêu trong nước xung quanh quá trình chuyển đổi năng lượng có thể thay đổi, cả hai quốc gia sẽ được hưởng lợi từ việc ưu tiên các kết quả chính sách công nghiệp và khả năng cạnh tranh toàn cầu, đặc biệt là khi thị trường toàn cầu tiếp tục tập trung vào công nghệ năng lượng sạch và chuỗi cung ứng.
Tác giả: ADITYA RAMJI
Nguồn: Quỹ ORF
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục




