Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Mối quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trong thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương: quan hệ đối tác hướng tới tương lai chia sẻ chiến lược (Phần 3)

Mối quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trong thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương: quan hệ đối tác hướng tới tương lai chia sẻ chiến lược (Phần 3)

Trong bối cảnh chính trị khu vực và toàn cầu thay đổi, Ấn Độ và Việt Nam là những đối tác có tầm quan trọng chiến lược trong thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương. Đối với Ấn Độ, Việt Nam là một đối tác quan trọng mà qua đó có thể nâng cao lợi ích kinh tế và chiến lược của mình trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mặt khác, Việt Nam chú trọng đến Ấn Độ để tăng cường an ninh và hợp tác khu vực.

01:44 05-10-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

(Tiếp theo phần 2)

Mối quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trong thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương:
quan hệ đối tác hướng tới tương lai chia sẻ chiến lược
    

TS Sanghamitra Sarma*

2.1 Hợp tác chính trị:

2.1.1 Bối cảnh

Kể từ khi ký kết quan hệ đối tác chiến lược, Ấn Độ và Việt Nam đã cùng nhau phát triển hợp tác chính trị trong nhiều vấn đề. Trao đổi các chuyến thăm song phương đã là một việc phổ biến, kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm 1975.

Ngày nay, trong bối cảnh khu vực châu Á ngày càng được chú trọng, Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có nhiều lý do và phạm vi phát triển. Trong chuyến thăm Hội đồng Ấn Độ về các vấn đề thế giới ngày 12 tháng 7 năm 2013, ông Phạm Bình Minh, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam đã chỉ ra rằng, khu vực châu Á - Thái Bình Dương là một sân khấu mới của tái cấu trúc địa chính trị toàn cầu. Ông nói: “Thế giới đã rất chú ý đến sự tăng trưởng ngoạn mục của Trung Quốc, Mỹ với sự tái cân bằng chiến lược, Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ và Nhật Bản dần dần đóng vai trò tích cực... chúng tôi trong ASEAN hoan nghênh sự tham gia và cam kết của Ấn Độ với ASEAN với các biện pháp cụ thể. Chúng tôi muốn nhìn thấy sự hiện diện nhiều hơn của Ấn Độ trong khu vực Đông Nam Á, không chỉ về mặt chính trị, mà còn cả về kinh tế”[1]

Việt Nam đã tích cực ủng hộ nỗ lực của Ấn Độ để mở rộng quan hệ với ASEAN và thậm chí đã thừa nhận mong muốn của Ấn Độ tìm kiếm quan hệ đối tác cấp cao, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC). Trong năm 2010, Việt Nam đã tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Ấn Độ - ASEAN và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, nơi tầm quan trọng của Ấn Độ rõ ràng được đánh giá cao. Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 16 chỉ ra rằng ASEAN + 1 FTA đã cung cấp thị trường lớn cho xuất khẩu của ASEAN với các đối tác thương mại lớn như Ấn Độ và Trung Quốc, hai nền kinh tế lớn mới nổi của châu Á[2]. Mặt khác, tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) tổ chức tại Hà Nội chỉ ra những nỗ lực của Ấn Độ trong việc thực hiện chương trình xây dựng năng lực thí điểm EAS và hoan nghênh đề xuất mới xây dựng năng lực trong khu vực[3]. Là một quốc gia thành viên tích cực trong ASEAN, Việt Nam tham gia vào mọi khía cạnh của hợp tác ASEAN, bao gồm cả hợp tác Chính trị An ninh (APSC) của ASEAN, thông qua đó cố gắng có liên quan trong kiến ​​trúc châu Á - Thái Bình Dương. Ấn Độ cam kết ủng hộ nhất quán đối với Cộng đồng ASEAN, bao gồm ba trụ cột - APSC, Cộng đồng Kinh tế ASEAN và Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN. Trung tâm ASEAN - Ấn Độ đã được khánh thành tháng 6 năm 2013 tại New Delhi để hỗ trợ trong việc thực hiện các chương trình kết nối ASEAN - Ấn Độ và thúc đẩy ASEAN - Ấn Độ hợp tác trong các lĩnh vực liên quan với nhau như nước, năng lượng, an ninh lương thực, v.v.[4]

Ấn Độ và Việt Nam cũng là thành viên của Hợp tác 6 nước khu vực Sông Mekong - Sông Hằng (MGC), một sáng kiến của 6 quốc gia bao gồm Ấn Độ, Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan và Myanmar cho hợp tác du lịch, văn hóa, giáo dục, giao thông vận tải. MGC là một nền tảng rộng lớn cung cấp tiềm năng to lớn để tăng cường quan hệ chiến lược giữa Ấn Độ và Việt Nam.

2.1.2 Con đường phía trước:

Hợp tác khu vực Sông Mekong - Sông Hằng cần chú trọng giải quyết khoảng cách về cơ sở hạ tầng. Tạo thuận lợi về biên giới cho thương mại và công nhận các tiêu chuẩn lẫn nhau có thể làm tăng khả năng kết nối mạnh mẽ giữa các hành lang. Ấn Độ và Việt Nam cũng có thể phấn đấu để tạo ra một sự cân bằng hòa bình trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương bằng cách ngăn chặn bất kỳ “xung đột tiềm năng” nào với các nước láng giềng. Việc thực hiện Cộng đồng ASEAN dự kiến sẽ mở ra những lợi ích tối ưu cho khu vực và cũng cần cho cả Ấn Độ và Việt Nam.

Hơn nữa, trong một thế giới toàn cầu hiện nay, chúng ta có một số mối quan tâm an ninh xuyên quốc gia, từ chủ nghĩa khủng bố, cướp biển, ma túy và buôn bán người cho đến sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Những mối đe dọa đó không thể được xử lý bởi các quốc gia riêng lẻ. Hợp tác trong các lĩnh vực này sẽ giúp giải quyết một số những mối đe dọa cấp bách nhất đối với phát triển và an ninh mà Ấn Độ và Việt Nam phải đối mặt. Về vấn đề này, một kế hoạch hành động chung để giải quyết các mối đe dọa chung sẽ không chỉ góp phần giải quyết vấn đề đặt ra mà còn có thể tìm ra được giải pháp để giải quyết các vấn đề tương tự.

2.2 Hợp tác về kinh tế, thương mại và đầu tư:

2.2.1. Bối cảnh

Sự thay đổi năng động của các kịch bản kinh tế toàn cầu đã tạo ra nhiều cơ hội để tăng cường hợp tác kinh tế Ấn Độ - Việt Nam. Sự phát triển và tiến bộ của nền kinh tế Việt Nam là một câu chuyện thành công của bản thân nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh này, Ngân hàng Thế giới đã nhận thấy rõ rằng, “tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam kể từ năm 1990 đã được xếp vào loại nhanh nhất thế giới, trung bình 5,5% một năm kể từ năm 1990, và 6,4% mỗi năm trong những năm 2000. Nền kinh tế của Việt Nam tiếp tục lớn mạnh trong năm 2015, với tốc độ tăng trưởng GDP ước tính là 6,7% cho cả năm”[5]. Mặt khác, nền kinh tế Ấn Độ, theo Ngân hàng Thế giới là nền kinh tế lớn thứ tư trên thế giới mà “sự tăng trưởng và phát triển gần đây là một trong những thành tựu quan trọng nhất của thời đại chúng ta”[6]. Triển vọng phát triển của cả hai nền kinh tế tạo cơ hội tốt để xây dựng các mối quan hệ song phương trên cơ sở hợp tác kinh tế. Khu vực này cũng đã được bao trùm bởi thương mại song phương và đầu tư, khuyến khích quan hệ kinh tế ngày càng tăng của hai nước.

Mặc dù Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật đã được thành lập 1982, nhưng chỉ từ những năm 1990, sau khi đưa ra Chính sách Hướng Đông thì quan hệ kinh tế Ấn Độ - Việt Nam mới có được một động lực đáng kể. Ở đây có thể nhắc đến hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ bao gồm cả thiết bị điện tử (điện thoại di động và linh kiện, máy tính và phần cứng điện tử), cao su tự nhiên, hóa chất, đá, hàng thủ công mỹ nghệ, thủy hải sản, thực phẩm chế biến, cà phê, dệt may và các sản phẩm gỗ. Còn Việt Nam nhập khẩu thiết bị, phụ tùng, thiết bị y tế, dược phẩm, thực phẩm, bông, linh kiện máy tính, hàng tiêu dùng, thức ăn gia súc, ngô, thép, kim loại, nhựa, các loại thuốc tân dược và máy móc thiết bị từ Ấn Độ.

Thương mại song phương đã tăng trưởng nhanh chóng giữa hai nước từ 72 triệu USD trong 1995 lên 376 triệu USD trong năm 2002[7]. Con số thương mại này vượt qua con số 1 tỷ vào năm 2006[8]. Tuy nhiên, bất chấp sự tăng trưởng đáng kể về khối lượng thương mại song phương, thị phần thương mại của Việt Nam với Ấn Độ trong tổng thương mại của mình đã tăng nhẹ từ 1,03% trong 2002 lên 1,73% trong năm 2008[9]. (Xem tiếp phần 3)

* Nghiên cứu viên, Hội đồng nghiên cứu thế giới của Ấn Độ, New Delhi, Ấn Độ.


[1] Bài phát biểu của Ông Phạm Bình Minh, Bộ trưởng Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Kỳ họp thứ 6 (Quốc hội Ấn Độ) về chủ đề "Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam và các vấn đề khu vực", ngày 12 tháng 7 năm 2013, http://www.icwa.in/pdfs/fmspeech12072013.pdf truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2016.

[2] Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị cấp cao lần thứ 16 của ASEAN "Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động", Hà Nội, ngày 9 tháng 4 năm 2010, http://asean.org/?static_post=chairman-s-statement-of-the-16th-asean-summit-towards-the-asean-community-from-vision-to-action truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2016.

[3] Tuyên bố Chủ tịch của Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) Hà Nội, Việt Nam được tổ chức ngày 30 tháng 10 năm 2010, http://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/eas/pdfs/state101030.pdf truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2016.

[4] "Trung tâm ASEAN-Ấn Độ", Bộ Ngoại giao, Chính phủ Ấn Độ, 21 tháng 6 năm 2013, http://www.mea.gov.in/press-releases.htm?dtl/21848/ASEANIndia+Centre truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2016.

[5]  "Việt Nam: Tổng quan", Ngân hàng Thế giới, ngày 11 tháng 4 năm 2016, http://www.worldbank.org/en/country/vietnam/overview truy cập ngày 06 tháng 7 năm 2016.

[6] "Ấn Độ: Tổng quan", Ngân hàng Thế giới, không có ngày, http://www.worldbank.org/en/country/india/overview truy cập vào 06 tháng 7 năm 2016.

[7] Nguyễn Huy Hoàng. "Khai thác các lĩnh vực hợp tác trong Quan hệ kinh tế Việt Nam - Ấn Độ trong bối cảnh Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ" trong Vijay Sakhuja (ed.) Quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ-Việt Nam đối tác chiến lược: Khai thác các triển vọng để mở rộng hợp tác (New Delhi: Pentagon Press, 2011), tr. 19.

[8] Như trên.

[9] Nguyễn Huy Hoàng. "Khai thác các lĩnh vực hợp tác trong Quan hệ kinh tế Việt Nam - Ấn Độ trong bối cảnh Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ" trong Vijay Sakhuja (ed.) Quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ-Việt Nam đối tác chiến lược: Khai thác các triển vọng để mở rộng hợp tác (New Delhi: Pentagon Press, 2011), tr. 19.

Nguồn:

Cùng chuyên mục