Một số điểm nhấn trong mối quan hệ Việt Nam Ấn Độ giai đoạn 1972-1991

Từ năm 1972 đến năm 1991 là giai đoạn đầy biến động của Chiến tranh Lạnh. Trong thời gian này, Việt Nam và Ấn Độ đã cùng nhau vượt qua khó khăn và tạo nên một mối quan hệ ngoại giao đặc biệt.
Việt Nam dồn sức cho công cuộc thống nhất và tái thiết, Ấn Độ trung thành với chính sách đối ngoại không liên kết. Tuy mỗi nước có mục tiêu phát triển riêng, nhưng cả hai luôn hỗ trợ nhau trên trường quốc tế. Mối quan hệ trong sáng và bền vững ấy đã được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mô tả bằng một câu nói bất hủ trong chuyến thăm Ấn Độ năm 1978: “Quan hệ Việt Nam-Ấn Độ: Trong sáng như bầu trời không một gợn mây.”
Bối cảnh Chiến tranh Lạnh
Giai đoạn lịch sử từ giữa thế kỷ XX đến năm 1991 khi Liên Xô và khối Đông Âu tan rã, được định danh là Chiến tranh Lạnh. Giai đoạn này được đặc trưng bởi hai đặc điểm chủ yếu trong quan hệ quốc tế.
Đặc trưng thứ nhất là sự phân cực ý thức hệ và cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai siêu cường. Một bên là Mỹ đại diện cho chủ nghĩa tư bản, và bên kia là Liên Xô đại diện cho chủ nghĩa xã hội. Sự đối đầu này không chỉ giới hạn ở phạm vi hai cường quốc, mà còn biểu hiện rõ nét ở các khu vực khác trên thế giới. Tại Việt Nam, sự đối lập giữa miền Bắc và miền Nam trong giai đoạn 1960-1975 là một biểu hiện cụ thể của Chiến tranh Lạnh. Tại Đông Nam Á, sự ra đời của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967, với năm thành viên ban đầu, cũng nhằm mục đích kiềm chế sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản trong khu vực.
Đặc trưng thứ hai là việc các quốc gia nhỏ trở thành chiến trường ủy nhiệm của các siêu cường. Việt Nam là một ví dụ điển hình khi trở thành nơi diễn ra các cuộc xung đột lớn với Pháp và Mỹ, phản ánh sự can thiệp của các cường quốc vào các vấn đề khu vực.
Trong bối cảnh chính trị cường quyền đó, quan hệ quốc tế trở nên hết sức thận trọng. Các quốc gia nhỏ phải nỗ lực duy trì sự độc lập, tránh bị cuốn vào cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn và không trở thành công cụ trong mưu đồ của họ. Giai đoạn này, Ấn Độ đã theo đuổi chính sách đối ngoại không liên kết nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và tránh bị lôi kéo vào bất kỳ phe phái nào trong cuộc đối đầu giữa các siêu cường.
Giai đoạn 1972-1977
Vào ngày 7 tháng 1 năm 1972, dưới thời Thủ tướng Indira Gandhi, Ấn Độ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc Việt Nam) đã nâng cấp quan hệ ngoại giao lên cấp đại sứ, đánh dấu sự thiết lập chính thức quan hệ song phương. Động thái này thể hiện sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ, vốn trước đó duy trì mối quan hệ với cả hai miền của Việt Nam.
Quyết định này đã gây ra phản ứng tiêu cực từ phía Mỹ, ảnh hưởng đến quan hệ Mỹ - Ấn Độ. Một sự kiện đáng chú ý là vào ngày 11 tháng 10 năm 1972, trụ sở của phái bộ Ấn Độ tại Hà Nội đã bị trúng bom trong một cuộc không kích của Mỹ.[1]
Sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ không thể tách rời khỏi bối cảnh chính trị quốc tế phức tạp trong Chiến tranh Lạnh tại thời điểm đó. Việt Nam đang nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cùng lúc đó, quan hệ giữa Ấn Độ và Liên Xô cũng trở nên khăng khít sau khi Liên Xô ủng hộ Ấn Độ trong cuộc xung đột Ấn Độ - Pakistan năm 1971.
Sự xích lại gần nhau của ba quốc gia này được giải thích bởi những tính toán địa chính trị chiến lược. Từ thập niên 1960, Liên Xô và Trung Quốc đã xảy ra xung đột biên giới gay gắt. Cuộc đối đầu Mỹ - Liên Xô đã thúc đẩy Liên Xô tìm kiếm đồng minh tại Nam Á nhằm cân bằng lại liên minh chiến lược giữa Mỹ, Trung Quốc và Pakistan. Do đó, Liên Xô, Ấn Độ và Việt Nam đã hình thành mối quan hệ liên kết không chính thức để đối phó với những thách thức địa chính trị chung.
Sau chiến thắng và thống nhất đất nước vào năm 1975 ở Việt Nam, quan hệ Ấn Độ-Việt Nam, Ấn Độ đã công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời của miền Nam Việt Nam ngay lập tức vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, và Thủ tướng Indira Gandhi đã gửi lời chúc mừng ngay ngày 2 tháng 5 năm 1975.[2] Một phái đoàn cấp cao do G.S. Dhillon, Chủ tịch Hạ viện Ấn Độ (Lok Sabha), dẫn đầu đã thăm chính thức nước Việt Nam thống nhất vào tháng 6 năm 1975 và được đón tiếp nồng nhiệt.[3]
Sau năm 1975, Ấn Độ đã cung cấp sự hỗ trợ to lớn, cả về tinh thần và vật chất, đủ ủng hộ công cuộc tái thiết của Việt Nam thời hậu chiến, bao gồm hợp tác trong khoa học và công nghệ, công nghiệp và nông nghiệp. Ấn Độ cũng chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng để xây dựng năng lực cho Việt Nam. Khi Việt Nam lấy tên mới là “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” vào ngày 2 tháng 7 năm 1976, các nhà lãnh đạo Ấn Độ đã gửi thông điệp chúc mừng. Năm 1976, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình đã đi thăm chính thức Ấn Độ, hai bên chia sẻ tầm nhìn chung về những vấn đề trong khu vực và quốc tế.
Giai đoạn 1977-1980
Dưới thời của Thủ tướng Morarji Desai, Ấn Độ và Việt Nam tiếp tục tình hữu nghị và hợp tác. Ấn Độ đã ủng hộ việc Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc, và Việt Nam đã gia nhập tổ chức này vào ngày 20 tháng 9 năm 1977. Tháng 1 năm 1978, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Samarendra Kundu đã thăm Việt Nam và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng đích thân đón tiếp. Vào tháng 2 năm 1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm chính thức Ấn Độ. Thủ tướng đã mô tả quan hệ Việt Nam - Ấn Độ “trong sáng như bầu trời không một gợn mây”. Một thông cáo chung từ chuyến thăm này nhấn mạnh sự sẵn sàng của Ấn Độ chia sẻ kinh nghiệm cho công cuộc tái thiết quốc gia của Việt Nam.
Năm 1979, Ấn Độ lên tiếng ủng hộ Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia do ông Heng Samrin làm Chủ tịch, do Ấn Độ có lập trường nhất quán không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có chủ quyền. Ấn Độ coi việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia là chính đáng để ứng phó với sự xâm phạm vùng biên giới Campuchia – Việt Nam và hành xử bạo lực của chế độ Khơme đỏ.
Giai đoạn 1980-1984
Bà Indira Gandhi trở lại nắm quyền Thủ tướng vào năm 1980. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thực hiện chuyến thăm chính thức thứ hai tới Ấn Độ. Tháng 12 năm 1982, Ủy ban Kinh tế Hỗn hợp Ấn Độ-Việt Nam (Joint Commission Meeting) đã được thành lập. Cuộc họp Ủy ban hỗn hợp (JCM) về Hợp tác kinh tế, Thương mại, Khoa học và Công nghệ ở cấp Bộ trưởng Ngoại giao và Tham vấn chính trị và Đối thoại Chiến lược ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao cung cấp các khuôn khổ chính cho việc đánh giá song phương trên nhiều lĩnh vực khác nhau mà hai bên cùng quan tâm. Vòng JCM gần đây nhất được thực hiện trong năm 2023.[4]
Các chuyến thăm trao đổi giữa các tổng tham mưu trưởng quân đội hai nước đã diễn ra vào tháng 4 năm 1984. Tháng 9 năm 1984, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, đã thực hiện chuyến công du nước ngoài đầu tiên tới một nước không cộng sản là Ấn Độ, mở ra những triển vọng mới cho hợp tác song phương, đặc biệt trong khoa học và công nghệ. Khi bà Indira Gandhi bị ám sát vào ngày 31 tháng 10 năm 1984, Việt Nam đã tuyên bố ba ngày quốc tang, nghi thức chỉ dành cho lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam.
Giai đoạn 1985-1991
Dưới thời Thủ tướng Rajiv Gandhi, Ấn Độ và Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI). Tháng 11 năm 1985, Thủ tướng Rajiv Gandhi đã thăm Việt Nam. Trong chuyến thăm, Việt Nam đã truy tặng Huân chương Sao Vàng cho cố Thủ tướng Indira Gandhi vì sự ủng hộ to lớn của bà đối với Việt Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất quốc gia và lập trường vững chắc của bà chống lại chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân. Nhận giải thưởng thay mặt mẹ mình, ông Rajiv Gandhi mô tả vinh dự dành cho mẹ ông là một biểu hiện của tình hữu nghị truyền thống giữa hai quốc gia. Trong một tuyên bố chung được đưa ra sau chuyến thăm của ông Rajiv Gandhi, hai bên nhấn mạnh lời kêu gọi giải trừ quân bị hoàn toàn và chấm dứt mọi dấu vết của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Theo lời của Rajiv Gandhi: “Việt Nam là một người bạn thực sự và chân thành của Ấn Độ … chúng ta có nhiều nhận thức địa chính trị chung. Sự hiểu biết chính trị chúng ta đã thiết lập sẽ củng cố và bảo vệ các lực lượng hòa bình và ổn định ở châu Á”.[5]
Giai đoạn này, Việt Nam khởi xướng thời kỳ Đổi Mới, cái cách kinh tế, vào năm 1986, trong khi cải cách kinh tế ở Ấn Độ diễn ra từ năm 1991. Hai nước duy trì tình hữu nghị bền chặt. Các phái đoàn cấp bộ trưởng và các chuyến thăm của Bộ trưởng Ngoại giao, Natwar Singh, vẫn tiếp tục, giải quyết các vấn đề như vấn đề Campuchia. Chuyến dừng chân ngắn thứ hai của Rajiv Gandhi tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 4 năm 1988, khi trở về từ Nhật Bản, để gặp gỡ các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam, đã nhấn mạnh mối quan hệ lịch sử và sự hiểu biết mạnh mẽ cho hợp tác toàn diện. Ông được cho là đã chuyển một thông điệp hòa giải từ Việt Nam tới Bắc Kinh, cho thấy mức độ tin cậy cao trong quan hệ song phương.
Trong giai đoạn này, hợp tác Nam – Nam (giữa các quốc gia đang phát triển thuộc khối phương Nam toàn cầu) đi vào chiều sâu thực chất. Vào tháng 1 năm 1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là khách mời danh dự tại lễ kỷ niệm Ngày Cộng hòa của Ấn Độ (26/1). Đồng chí nhấn mạnh quan hệ Ấn Độ - Việt Nam là ví dụ điển hình cho hợp tác Nam-Nam.[6] Các hoạt động ngoại giao tiếp tục với các chuyến thăm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch vào tháng 4 năm 1989, và Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ I.K. Gujral vào tháng 4 năm 1990. Tổng thống Ấn Độ R. Venkataraman đã thăm Việt Nam vào tháng 4 năm 1991. Trong suốt giai đoạn này, Ấn Độ liên tục duy trì quan hệ hữu nghị với Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thống nhất, với mối quan hệ song phương được định hình đáng kể bởi động lực chính trị siêu cường và cam kết của Ấn Độ đối với chính sách không liên kết.
Tóm lại, giai đoạn 1972-1991 là một minh chứng sống động cho mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Ấn Độ, hình thành và phát triển trong bối cảnh địa chính trị đầy biến động của Chiến tranh Lạnh. Mặc dù mỗi quốc gia theo đuổi những con đường phát triển riêng biệt, Việt Nam tập trung vào thống nhất và tái thiết, trong khi Ấn Độ kiên định với chính sách không liên kết, song hai quốc gia đã cùng nhau xây dựng nền tảng hợp tác vững chắc, bao gồm những cơ chế được duy trì cho tới tận ngày nay (điển hình là Ủy ban Kinh tế Hỗ hợp Việt Nam - Ấn Độ, JCM). Sự ủng hộ lẫn nhau trên trường quốc tế, được thể hiện qua các sự kiện quan trọng như việc Ấn Độ công nhận chính phủ mới của Việt Nam sau năm 1975 và hỗ trợ tái thiết hậu chiến, đã củng cố tình hữu nghị này. Mối quan hệ song phương không chỉ là sự xích lại gần nhau của các quốc gia đang phát triển để đối phó với những thách thức chung, mà còn là biểu tượng của tình đoàn kết quốc tế, được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gói gọn trong hình ảnh “trong sáng như bầu trời không một gợn mây.” Tình hữu nghị này là tiền đề quan trọng cho sự phát triển toàn diện của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong những giai đoạn tiếp theo.
Tài liệu tham khảo
[1] Reddy, R. (2009). India and Vietnam: Era of friendship and cooperation (1947-1991). Emerald Publishers.
[2] Marwah, R. & Le, T.H.N. (2021). India–Vietnam Relations Development Dynamics and Strategic Alignment. Springer.
[3] https://mealib.nic.in/?pdf2504?000
[4] https://www.indembassyhanoi.gov.in/page/bilateral-relations/
[5] Reddy, R. (2009). India and Vietnam: Era of friendship and cooperation (1947-1991). Emerald Publishers.
[6] Chakraborti, T. (1990, April–June). India and Vietnam: A new dimension in South-South economic cooperation. Asian Studies (Calcutta), 8.
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục