Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Quan hệ ngày càng sâu sắc giữa Nhật Bản và Ấn Độ

Quan hệ ngày càng sâu sắc giữa Nhật Bản và Ấn Độ

Quan hệ Ấn Độ - Nhật Bản chưa bao giờ mạnh mẽ như hiện nay. Quỹ đạo phát triển quan hệ giữa hai nước bắt đầu từ một thập kỷ trước và đã phát triển nhanh chóng trong những năm qua.

05:12 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Quan hệ ngày càng sâu sắc giữa Nhật Bản và Ấn Độ

Purnendra Jain, University of Adelaide

Chất xúc tác mới được phát hiện giữa Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và người đồng cấp Ấn Độ Narendra Modi đã đưa mối quan hệ hai nước lên tầm cao mới. Vậy, Ấn Độ và Nhật Bản cần làm gì để duy trì và phát triển toàn diện mối quan hệ.

Chuyến thăm Ấn Độ mới đây của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (11-13/12/2015) được xem như một phần trong các cuộc hội nghị cấp cao thường niên giữa hai nước kể từ năm 2007. Trong chuyến thăm này, hai nhà lãnh đạo đã ký một loạt thỏa thuận và bản ghi nhớ. Một số thỏa thuận đã được dự kiến từ trước, song một số thỏa thuận khác lại gây sự ngạc nhiên. Thỏa thuận mang tính bước ngoặt là cam kết của Nhật Bản tài trợ cho dự án tàu cao tốc đầu tiên nối Mumbai - thủ đô tài chính của Ấn Độ - với Ahmedabad, trung tâm thương mại bên bờ biển phía Tây bang Gujarat, quê hương của ông Modi. Theo chương trình cho vay đồng yen, Nhật Bản sẽ cung cấp một khoản vay tín dụng ưu đãi dài hạn trị giá 12 tỷ USD. Dự án này có thể sẽ khởi công vào năm 2017 với tổng chi phí lên đến 15 tỷ USD.

Khoản vay này sẽ được cung cấp thông qua cơ quan viện trợ của Nhật Bản - Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản. Theo thỏa thuận, một nhà thầu Nhật Bản sẽ chịu trách nhiệm về dự án khổng lồ này. Toàn bộ khoản vay sẽ được gắn với công nghệ và các công ty của Nhật Bản. Tokyo đã áp dụng mô hình viện trợ có ràng buộc với hầu hết các dự án viện trợ của mình trong những năm 1960 và 1970 của thế kỷ trước, nhưng sau đó chuyển sang mô hình viện trợ không ràng buộc. Tuy nhiên, viện trợ có ràng buộc đã xuất hiện trở lại khi nền kinh tế Nhật Bản vật lộn với khó khăn và các công ty Nhật Bản cần các dự án do chính phủ tài trợ cho dòng chảy tài chính của họ.

Về bản chất, dự án này nhằm mục đích kinh tế, nhưng nó còn mang một ý nghĩa chính trị sâu sắc. Tokyo đã vô cùng thất vọng khi Jakarta chọn Trung Quốc thay vì Nhật Bản cho dự án tàu cao tốc. Đây là một cú sốc lớn đối với Nhật Bản về mặt kinh tế và được coi là một thất bại của Nhật Bản. Chính quyền Abe không muốn để mất cơ hội với Ấn Độ vì nước này đang trở thành một đối tác chiến lược quan trọng của Nhật Bản. Đối với Ấn Độ, dự án sẽ phát đi một tín hiệu mạnh mẽ ở cả trong và ngoài nước rằng Chính phủ Modi cam kết phát triển cơ sở hạ tầng và hiện đại hoá để hoàn thành chiến dịch “Make in India” (Sản xuất ở Ấn Độ).

Ông Abe đã đề nghị cung cấp thêm các khoản vay bằng đồng yên cho các dự án cơ sở hạ tầng của Ấn Độ bao gồm các tuyến đường bộ ở khu vực Đông Bắc nghèo nàn - đáng chú ý nhất là ở Arunachal Pradesh, nơi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ. Đây chắc chắn là một dự án cơ sở hạ tầng mang nhiều ý nghĩa chiến lược. Nhưng đáng ngạc nhiên nhất là thỏa thuận khung về hợp tác năng lượng hạt nhân dân sự. Đề xuất này bắt đầu được đưa ra vào năm 2010 nhưng bị đình trệ sau thảm họa hạt nhân Fukushima dẫn đến các cuộc biểu tình chống điện hạt nhân ở Nhật Bản. Thỏa thuận hạt nhân dân sự sẽ cho phép các công ty Nhật Bản trực tiếp xuất khẩu các công nghệ hạt nhân. Thỏa thuận cuối cùng vẫn chưa được ký kết vì cần phải có thêm những cuộc thảo luận cũng như sự chấp thuận của Quốc hội Nhật Bản. Tuy nhiên, thỏa thuận khung này sẽ mở đường cho các nước cung cấp thứ ba (có vốn đầu tư Nhật Bản) xuất khẩu công nghệ hạt nhân sang Ấn Độ. Đây là một bước đột phá lớn đối với Ấn Độ vì nó nhằm mục đích mở rộng chương trình năng lượng hạt nhân của nước này.

Trong khi Nhật Bản xuất khẩu thiết bị và công nghệ hạt nhân cho nhiều quốc gia, thì Ấn Độ là trường hợp ngoại lệ vì New Delhi chưa ký hiệp ước không phổ biến hạt nhân. Những nước đã ký hiệp ước nêu điều kiện rằng, Nhật Bản sẽ ngừng hợp tác hạt nhân nếu Ấn Độ tiếp tục tiến hành thử hạt nhân hoặc tái xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng cho mục đích quân sự. Thỏa thuận này có nghĩa Nhật Bản đã thừa nhận tình trạng của Ấn Độ là một quốc gia vũ khí hạt nhân và sẵn sàng làm ăn với nước này dù nó không phải là một bên tham gia hiệp ước không phổ biến hạt nhân. Một cuộc vận động hành lang mạnh mẽ chống hạt nhân và phản đối thỏa thuận hạt nhân với Ấn Độ ở Nhật Bản đã xuất hiện. Nhưng ông Abe vẫn mong muốn Nhật Bản trở thành một cường quốc xuất khẩu hạt nhân nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp hạt nhân của Nhật Bản vốn phải hứng chịu những thiệt hại lớn về tài chính sau thảm họa hạt nhân Fukushima.

Điểm nổi bật thứ ba trong chuyến thăm là một thỏa thuận khung về hợp tác và chuyển giao công nghệ quốc phòng. Trong nhiều năm qua, Nhật Bản và Ấn Độ vẫn đang đàm phán việc bán máy bay đổ bộ Shin Maywa US-2 cho Ấn Độ. Mặc dù chưa đạt được thỏa thuận nhưng nó chỉ là vấn đề thời gian. Nhật Bản đã dỡ bỏ các lệnh cấm bán vũ khí kéo dài hàng thập kỷ và Ấn Độ đang nổi lên là một thị trường quan trọng đối với Nhật Bản. Việc bán máy bay cho Ấn Độ sẽ là một bước phát triển quan trọng trong chính sách vũ trang của Nhật Bản thời hậu chiến.

Rõ ràng, Nhật Bản và Ấn Độ đang trở thành đối tác chiến lược quan trọng của nhau. Nhật Bản đã tham gia tập trận hải quân Malabar với Ấn Độ và Mỹ. Nhật Bản và Ấn Độ đã tổ chức các cuộc đối thoại cấp cao về ngoại giao và quốc phòng. Quan hệ Nhật - Ấn chậm phát triển trong một thời gian dài và hai bên chỉ mới phát hiện ra những lợi ích tiềm năng của mối quan hệ gần gũi hơn. Nhưng nếu Ấn Độ và Nhật Bản muốn đảm bảo mối quan hệ song phương phát triển ổn định, thì hai nước cần phát triển vượt ra khỏi quan hệ quốc phòng và chuyện hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như thúc đẩy ngoại giao nhân dân. Chắc chắn, ông Modi và ông Abe sẽ cố gắng hướng tới một mối quan hệ toàn diện hơn./.

(Theo eastasiaforum.org; nghiencuubiendong.org) 

Nguồn:

Cùng chuyên mục