Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Từ “Chính sách Hướng Đông” đến “Hành động Phía Đông” và quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ (Phần 1)

Từ “Chính sách Hướng Đông” đến “Hành động Phía Đông” và quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ (Phần 1)

Chính sách “Hành động Phía Đông”, được nâng cấp từ “Chính sách Hướng Đông”, trên cơ sở tiếp cận khu vực Đông Nam Á, là một trong những điều chỉnh quan trọng trong chính sách ngoại giao của Ấn Độ. Chính sách này đã tác động mạnh mẽ đến mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được xem là một trụ cột trong “Chính sách Hướng Đông” của Ấn Độ. Mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, nếu trước kia chủ yếu về chính trị, thì giờ đây đã được mở rộng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng, đặc biệt kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2007.

01:07 05-10-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Từ “Chính sách Hướng Đông đến  “Hành động Phía Đông” 

quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Đ

                                       Thiếu tướng, GSTS Trương Giang Long*

 

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, trật tự thế giới cũ mất đi, trật tự thế giới mới đang hình thành, các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước lớn đều muốn khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, trong đó có việc củng cố vai trò quốc gia trong khu vực và các diễn đàn, các tổ chức quốc tế. Bên cạnh những hạn chế, tiến trình toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng mở ra nhiều cơ hội hợp tác phát triển về mọi mặt giữa các quốc gia. Để thoát khỏi thế cô lập về ngoại giao, tận dụng mọi thời cơ để phát triển, các quốc gia có xu hướng điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”[1]. Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, từ năm 2001, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước, trong đó có Ấn Độ.

Ấn Độ từ Chính sách Hướng Đông đến Hành động Phía Đông

Sau khi giành độc lập năm 1947, Ấn Độ là nước đầu tiên trên thế giới đưa ra chính sách đối ngoại trung lập - chính sách không liên kết, như J. Nehru khẳng định, đây là con đường tốt nhất để thực hiện các mục tiêu dân tộc của Ấn Độ. Với chính sách không liên kết và xu hướng phát triển hướng nội, Ấn Độ chủ trương phát triển nền kinh tế độc lập, tự lực cánh sinh với chính sách đóng cửa và thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, chính sách này đến những năm 1970 bắt đầu bộc lộ những nhược điểm, nền kinh tế phát triển chậm, kém năng động và tụt hậu so với nhiều nước vốn thua kém về tiềm năng và khoa học công nghệ.

Sau Chiến tranh Lạnh, cùng với bối cảnh mới của khu vực và quốc tế, cuộc khủng hoảng toàn diện ở Ấn Độ đã buộc các nhà lãnh đạo phải thay đổi toàn bộ tư duy và chính sách, trong đó có chính sách đối ngoại. Chính sách ngoại giao của Ấn Độ chuyển đổi theo hướng: từ sự ủng hộ của Ấn Độ với phong trào không liên kết và thế giới thứ ba được thay thế bằng chủ trương linh hoạt, thực tế hơn, tập trung cho chính sách kinh tế tự do mới cả trong nước và ngoài nước, các lĩnh vực thương mại và đầu tư ra nước ngoài là mối quan tâm của Chính phủ Ấn Độ. Sự thay đổi đó thể hiện ở Chính sách Hướng Đông - một chính sách ngoại giao chiến lược quan trọng sau khi Ấn Độ bắt đầu thực hiện cải cách kinh tế, tự do hóa thương mại vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. “Chính sách Hướng Đông là sự thay đổi căn bản trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ chủ nghĩa lý tưởng sang chủ nghĩa thực dụng”[2]. Mục tiêu của Chính sách Hướng Đông được đặt ra trong chiến lược phát triển của Ấn Độ, ban đầu là tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á. Sau đó, chính sách này dần được mở rộng ra khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ngay từ năm 1935, Nehru đã cho rằng, Thái Bình Dương có khả năng thay thế Đại Tây Dương với tư cách là trung tâm đầu não của thế giới trong tương lai. Và Ấn Độ, tuy không phải là một quốc gia ở Thái Bình Dương, nhưng Ấn Độ sẽ phải có sự ảnh hưởng quan trọng ở đó. Với chủ trương lấy “chủ nghĩa khu vực” vươn lên bá chủ châu Á và cường quốc của thế giới, Chính sách Hướng Đông đã thể hiện rõ cuộc chạy đua giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở châu Á.

Như vậy, về cơ bản, mục tiêu chung nhất của Chính sách Hướng Đông là đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự, không chỉ ở khu vực châu Á, mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Về mục tiêu cụ thể, Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ được triển khai nhằm thực hiện hai nhóm mục tiêu chủ yếu, bao gồm:

Nhóm mục tiêu chính trị chiến lược

Thông qua việc triển khai Chính sách Hướng Đông, Ấn Độ mong muốn hướng tới xây dựng và mở rộng ảnh hưởng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc ở khu vực để phần nào kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc tại Đông Á và Nam Á, nhất là Ấn Độ Dương - khu vực ảnh hưởng truyền thống của Ấn Độ.

Nhóm các mục tiêu kinh tế - xã hội

Ấn Độ triển khai Chính sách Hướng Đông nhằm phát triển các quan hệ kinh tế chặt chẽ với các quốc gia Đông Á, đặc biệt là thương mại, thông qua đó duy trì mức tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế Ấn Độ. Thông qua phát triển quan hệ thương mại với các quốc gia ở Đông Á, Ấn Độ hướng đến việc hội nhập kinh tế với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Ấn Độ hướng tới mục tiêu xây dựng cộng đồng kinh tế châu Á.

Có thể nói, sau quá trình triển khai Chính sách Hướng Đông, quan hệ Ấn Độ - ASEAN đã có những bước chuyển biến tích cực. Bằng chứng rõ ràng cho sự phát triển này là sau 20 năm quan hệ đối thoại, ASEAN và Ấn Độ đã quyết định đưa quan hệ lên tầm đối tác chiến lược từ năm 2012. Quan hệ đối tác chiến lược đã thể hiện một nội hàm mới, rộng và sâu sắc hơn, trong đó nổi bật là hai bên sẽ quyết tâm xây dựng khu vực mậu dịch tự do toàn diện và Ấn Độ sẽ thể hiện vai trò của mình một cách mạnh mẽ hơn như là một nhân tố cho đảm bảo hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, dù quan hệ giữa Ấn Độ và ASEAN đã có bước phát triển nhất định, nhưng trong thực chất, Chính sách Hướng Đông vẫn chưa giúp Ấn Độ đạt được những mong muốn đặt ra và dường như Ấn Độ vẫn chỉ là “người quan sát” trong các vấn đề của khu vực Đông Nam Á.

Xuất phát từ thực tế trên, cùng với những diễn biến phức tạp trong khu vực, nhất là việc Mỹ thực hiện chính sách “xoay trục” sang châu Á, kéo theo những sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của các cường quốc trên thế giới đối với châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ đã thực hiện một bước chuyển hết sức quan trọng trong chính sách đối ngoại khu vực. Ngày 30/9/2014, ông Narendra Modi, Thủ tướng đương nhiệm của Ấn Độ, đã có một tuyên bố quan trọng trong cuộc gặp cấp cao với Tổng thống Mỹ Barack Obama, quyết định đẩy nhanh Chính sách Hướng Đông lên tầm cao mới. Trên cơ sở những tuyên bố đó, ngày 5/10/2014, Chính phủ Liên minh Dân chủ quốc gia (NDA) do Thủ tướng Narendra Modi đứng đầu, đã quyết định chuyển từ Chính sách Hướng Đông sang Hành động Phía Đông.

Việc chuyển hướng trong chính sách đối ngoại khu vực châu Á của Ấn Độ cho thấy sự chủ động hơn của quốc gia này trong việc tăng cường quan hệ giữa hai cực tăng trưởng trong một châu Á đang nổi lên. Trong chuyến thăm Singapore cuối năm 2014, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ấn Độ Sushma Swaraj cũng đã khẳng định: "Hướng Đông không còn phù hợp, giờ đây chúng tôi cần Hành động phía Đông.

Các quan chức Ấn Độ khẳng định, sự thay đổi trên không mang động cơ chính trị mà chỉ đơn thuần là làm sâu sắc, thúc đẩy liên kết ngày càng chặt chẽ hơn trong quan hệ hợp tác với các nước ASEAN. Ấn Độ cho rằng, dùng từ “hành động” chỉ nhằm thể hiện sự quan tâm hơn của Chính quyền Thủ tướng Modi trong việc xúc tiến các chương trình kinh tế với các nước Đông Nam Á để thu hút đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, cũng như thúc đẩy kết nối các điểm thương mại trong khu vực. Điều này sẽ mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn cho khu vực Đông Bắc Ấn Độ. Chính sách này về cơ bản là sự tiếp nối Chính sách Hướng Đông nhưng trong thế chủ động hơn.

Hàng loạt các chuyến công du dồn dập của Thủ tướng Ấn Độ Modi và các quan chức cấp cao tới các nước châu Á - Thái Bình Dương vào cuối năm 2014 và đầu năm 2015, cũng như các chuyến thăm ngược lại đã cho thấy sự khởi đầu cho một giai đoạn mới trong triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Đúng như tên gọi Hành động Hướng Đông, với sự trỗi dậy hoà bình được các nước trong khu vực ủng hộ, Ấn Độ sẽ gia tăng hợp tác một cách thực chất hơn, hành động nhiều hơn trong hợp tác phát triển với các nước láng giềng Đông Nam Á và các quốc gia trong vành đai Châu Á - Thái Bình Dương, nhằm bảo đảm các lợi ích chiến lược của mình cũng như duy trì sự hoà bình, ổn định trong khu vực và thế giới.

Mặc dù Ấn Độ cho rằng, Hành động Phía Đông cũng giống như Chính sách Hướng Đông, tuy nhiên, nhìn vào thực tế thì rõ ràng đây là một bước tiến của Ấn Độ trong việc kết nối với các quốc gia ASEAN. Ấn Độ không chỉ thụ động đơn thuần ngồi nhìn về phía Đông mà có những hành động thiết thực để bảo vệ các lợi ích của mình, đồng thời thể hiện một vai trò lớn hơn, xứng đáng hơn với vị thế cường quốc ở khu vực và thế giới, từ đó thực hiện tham vọng phát triển, củng cố các mối quan hệ với các nước lớn ở khu vực Đông Á và điều này giúp Ấn Độ có thể thiết lập và khẳng định vai trò nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Dĩ nhiên, Đông Nam Á, với cơ chế hợp tác năng động, sẽ được Ấn Độ coi là hạt nhân của các mối quan hệ này. 

Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ dưới tác động của Chính sách Hướng Đông và Hành động Phía Đông.

Việt Nam và Ấn Độ có mối quan hệ truyền thống, hữu nghị và gắn bó lâu đời, được các thế hệ lãnh đạo hai nước gìn giữ, vun đắp và liên tục phát triển lên những tầm cao mới. Năm 1954, Thủ tướng Ấn Độ, J. Nehru đến thăm Việt Nam và năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Ấn Độ đặt nền tảng cho quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Ngày 07-01-1972, Việt Nam và Ấn Độ thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ. Tháng 9 năm 1984, sau chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn là hai chuyến thăm của Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi đã nâng quan hệ hai nước lên tầm cao mới, quan hệ nhiều mặt và tin cậy lẫn nhau. Quan hệ song phương ngày càng được tăng cường vì lợi ích của mỗi nước cũng như vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

Những năm 1990 trở lại đây, trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc, với sự kết thúc Chiến tranh Lạnh và xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, Chính sách Hướng Đông, trên cơ sở tiếp cận khu vực Đông Nam Á, là một trong những điều chỉnh quan trọng của Ấn Độ. Chính sách này đã tác động mạnh mẽ đến mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được xem là trụ cột trong Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ. Mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, nếu trước kia chủ yếu về chính trị, thì giờ đây đã được mở rộng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng. (Xem tiếp phần 2)


* Tổng cục phó Tổng cục Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.153.

[2] Trần Thị Lý (chủ biên), Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Cộng hòa Ấn Độ từ 1991 dến 2000, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002,

Bình luận của bạn

Nguồn:

Cùng chuyên mục