Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Vùng Đông Bắc Ấn Độ và Việt Nam: Sự phụ thuộc lẫn nhau và cơ hội hợp tác (Phần 3)

Vùng Đông Bắc Ấn Độ và Việt Nam: Sự phụ thuộc lẫn nhau và cơ hội hợp tác (Phần 3)

05:20 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

(Tiếp theo phần 2)

Mahendra P Lama*

NER - Việt Nam: Sự phụ thuộc lẫn nhau và hợp tác

Với bối cảnh địa phương, khu vực và toàn cầu, sự hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa Ấn Độ và Việt Nam hiện nay có thể được thúc đẩy trên bốn khía cạnh quan trọng. Thứ nhất, xét trên khía cạnh khu vực, Ấn Độ và Việt Nam chủ yếu sẽ hợp tác trong khuôn khổ quan hệ hợp tác Ấn Độ - ASEAN. Thứ hai, đó là bối cảnh CLMV (Cambodia, Lào, Myanmar và Việt Nam) nơi Ấn Độ - Việt Nam sẽ thực hiện một số hợp tác phát triển cụ thể trên cơ sở tiểu vùng. Thứ ba, đó là bối cảnh song phương vĩ mô, trong đó Ấn Độ và Việt Nam sẽ đi đầu trong các vấn đề có ảnh hưởng lẫn nhau. Và cuối cùng, đó là bối cảnh địa phương nơi khu vực Đông Bắc của Ấn Độ sẽ độc quyền mở rộng hợp tác phát triển liên doanh với Việt Nam.

Trên thực tế, du lịch văn hóa dân tộc dựa trên Phật giáo là một biến tích hợp và tổ chức bản thân có thể là công cụ hiệu quả và bền vững nhất cho hội nhập địa phương giữa NER của Ấn Độ và Việt Nam. Thủ hiến bang Arunachal Pradesh đã tổng kết lại trong đoạn sau,

 “Arunachal Pradesh được thiên nhiên ưu đãi với vẻ đẹp tự nhiên phong phú cùng địa hình Himalaya được bắc qua bởi những con sông gầm rú hùng vĩ và những dòng suối lấp lánh. Bang được ưu đãi với một số hồ băng, vô số và thác nước vô danh, sinh động và đa dạng hệ thực vật và động vật. Với 26 bộ lạc lớn và hơn 100 tiểu bộ lạc, bang là một cầu vồng dân tộc học của các nền văn hóa bộ tộc. Đáng buồn thay, dấu chân du khách trong tiểu bang đang rất eo hẹp chỉ 3.000.000 lượt khách trong nước và 5000 lượt du khách nước ngoài mỗi năm cho tới hiện nay. Arunachal thực sự là một thiên đường chưa được khám phá và cần phải được khám phá”[1].

Sự hợp tác giữa NER và Việt Nam tập trung vào địa lý tiểu vùng, cộng đồng, văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, các thể chế truyền thống, thanh thiếu niên, hội nhập kinh tế và xã hội dân sự xuyên biên giới[2]. Sự tích hợp cục bộ này sẽ được đặc trưng bởi các mục tiêu bao quát như:

i) Nhìn lại và xem xét lại các sáng kiến ​​trong quá khứ, tạo các dấu mốc quan trọng và củng cố thêm.

ii) Vai trò quan trọng đối với NER và Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách Hành động Phía Đông của Ấn Độ và cung cấp định hướng chuyển đổi mới hơn cho toàn bộ quá trình hợp tác.

iii) Đưa tiềm năng của NER của Ấn Độ lên hàng đầu như các công cụ chính sách quan trọng của nước ngoài trong chính sách Hành động Phía Đông của Ấn Độ

iv) Mở rộng khu vực chung giữa NER và Việt Nam trên cơ sở định hướng con người, tập trung vào cộng đồng, nguồn tài nguyên thiên nhiên và hướng đến giới trẻ.

v) Đàm phán NER-Việt Nam là một liên doanh tiểu khu vực quan trọng để thúc đẩy vai trò then chốt của Ấn Độ trong cả ASEAN và RCEP được đề xuất.

vi) Khởi xướng các chương trình tập trung vào con người và cộng đồng và kết nối các tổ chức trong khu vực NER-Việt Nam

vii) Tăng cường thương mại và đầu tư vào các lĩnh vực phi truyền thống bao gồm y tế, giáo dục, du lịch, quản lý tài nguyên thiên nhiên, truyền thông và nghệ thuật và văn hóa.

Trong vài năm qua, NER đã trở thành một điểm thu hút lớn đối với các nước ASEAN. Đã có nhiều chuyến thăm của các đại biểu các nước ASEAN, các cuộc thảo luận giữa các nhà lãnh đạo chính trị, các tổ chức kinh doanh, các đối tác đầu tư và các doanh nhân phát triển. Trung tâm Nghiên cứu ASEAN đã được thiết lập trong khuôn viên trường Đại học North Eastern Hill ở Shillong. Trong bối cảnh này, vai trò của Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ở Việt Nam khá quan trọng cả trong việc thực hiện các nghiên cứu về các dự án hành động cụ thể và nhạy cảm, tạo ra khối lượng chính trị gia, quan chức, doanh nhân, nhà đầu tư quan trọng, các thành viên xã hội dân sự và các phương tiện truyền thông sẽ vận hành các dự án này. Trung tâm này cùng với các tổ chức chuyên môn khác có thể có mạng lưới rộng lớn và hợp tác với các tổ chức học thuật, chuyên nghiệp và chính phủ trong NER của Ấn Độ.

Phương pháp tiếp cận dựa trên dự án có thể là cách tiếp cận phù hợp nhất giữa NER và Việt Nam vì nó sẽ có tác động trình diễn quy mô lớn cả trên các cộng đồng xuyên biên giới và tầng lớp chính trị. Ví dụ, trồng và chế biến tre đều được phổ biến rộng rãi ở cả NER và Việt Nam. Việc canh tác này có liên quan trực tiếp đến cộng đồng, thực tiễn xã hội và văn hóa của họ, sinh kế bền vững của họ và cũng có tiềm năng xuất khẩu lớn dưới nhiều hình thức. Ngành công nghiệp này được kết nối toàn cầu, nơi tri thức và công nghệ địa phương có thể được xuất khẩu sang thị trường toàn cầu như các sản phẩm truyền thống và hữu cơ. Hai trong số các liên doanh hấp dẫn liên quan đến tre là chế biến đồ nội thất và chế biến thực phẩm. Có thể có chuyển giao công nghệ, các dự án hợp tác, tiếp cận thị trường chung và đầu tư xuyên biên giới hơn không?

Sứ mệnh tre của Ấn Độ của khu vực NER có thể bắt đầu quá trình hợp tác này. NER và Việt Nam có thể phát triển quan hệ đối tác chỉ trong sản xuất, chế biến và tiếp thị măng. Sản phẩm đặc biệt này có một thị trường lớn trên toàn thế giới. Nó cũng có tiềm năng về xúc tiến công nghiệp dựa trên chuỗi giá trị. Ấn Độ cung cấp 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chế biến thực phẩm kể từ ngân sách năm nay. Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ Arun Jaitley nói rằng “Công nghiệp chế biến thực phẩm và thương mại nên hiệu quả hơn. 100% FDI sẽ được cho phép thông qua tuyến xúc tiến đầu tư nước ngoài (FIPB) trong việc tiếp thị các sản phẩm thực phẩm được sản xuất ở Ấn Độ. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho nông dân, tạo động lực cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và tạo ra cơ hội việc làm rộng lớn”.[3]

Có thể Việt Nam và NER đến với nhau bắt đầu bằng dự án măng. Sản phẩm của sự hợp tác này có được cấp quyền truy cập vào thị trường ASEAN theo Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ không? Sản phẩm “Sản xuất tại Ấn Độ” có thể được xem xét theo Điều 3 của thỏa thuận này liên quan đến vấn đề ứng xử quốc gia và Điều 17, trong đó Ủy ban Hỗn hợp có thể xem xét vấn đề quan tâm tập thể này. Liên doanh này có thể là một phần của Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) của ASEAN và Chính sách khuyến khích đầu tư và công nghiệp Đông Bắc (NEIIPP) của Ấn Độ? Làm thế nào để các doanh nhân Việt Nam có thể hợp tác với các chương trình khởi nghiệp của Ấn Độ để khai thác Đề án Phát triển Công nghiệp Đông Bắc mới được giới thiệu năm 2018 (NEIDS)? Cơ hội lớn tồn tại trong việc khai thác tiềm năng của NER và Việt Nam trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, phát triển chăn nuôi bò sữa và nông nghiệp, quản lý trồng trọt, làm vườn, trồng cà phê, năng lượng và thậm chí cả biến đổi khí hậu và quản lý thiên tai.

Hiện tại, NER và Việt Nam có thể tái tập trung vào ba phân đoạn dự án sau đây.

Giai đoạn I: Tuyên truyền các truyền thống cổ điển, dân gian và hiện đại

Văn hóa ẩm thực

Thủ công mỹ nghệ

Đồ trang trí

Dệt may

Thời trang và kiểu dáng

Nhạc cụ

Công cụ và công nghệ nông nghiệp

Rạp chiếu bóng

Piligrimage

Nghệ thuật biểu diễn - Âm nhạc - Khiêu vũ và Nhà hát

Giai đoạn II: Xây dựng lại kỹ năng, năng lực và cơ hội nghề nghiệp, tập trung vào giới trẻ

Các môn thể thao

Rạp chiếu bóng

Âm nhạc

Công nghệ thông tin

Doanh nhân: Khởi nghiệp

Du lịch

Yoga và hệ thống y học cổ truyền

Cộng đồng người Ấn Độ

Thực phẩm và chế biến

Làm vườn và trồng hoa

Thời trang và kiểu dáng

Kiến trúc

Cung ứng nữ trang

Thương mại biên giới

Phân đoạn III: Đưa các vùng địa lý và cộng đồng lại với nhau

A. Vùng biên giới và thanh niên: Kỹ năng, việc làm và nghề nghiệp

B. Giáo dục, sức khỏe và năng lượng

C. Du lịch và Văn hóa và Di sản Nông nghiệp

D. Kết nối, Thương mại và Đầu tư


[1] Bài phát biểu của Kalikho Pul, Bộ trưởng Bộ Arunachal Pradesh tại Hội nghị Hội đồng Đông Bắc lần thứ 65, 26-27 tháng 5 năm 2016, Shillong.

[2] Xem Bhatia, Rajiv K, Vijay Sakhjua, Vikash Ranjan (biên tập), Ấn Độ-Việt Nam: Chương trình để tăng cường quan hệ đối tác, Hội đồng thế giới của Ấn Độ, New Delhi, 2013; Xem Bhatia, Rajiv K, Vijay Sakhjua, Vikash Ranjan (biên tập), Ấn Độ-Việt Nam: Chương trình nghị sự tăng cường quan hệ đối tác, Hội đồng các vấn đề thế giới của Shipra-Ấn Độ, New Delhi, 2013.

[3] Bài phát biểu ngân sách của Arun Jaitley, Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ, 2016-2017, New Delhi, ngày 29 tháng 2 năm 2016, trang 16.


* Giáo sư Kinh tế Nam Á, Trường nghiên cứu quốc tế, Đại học Jawaharlal Nehru, New Delhi, đồng tác giả của tài liệu 'Tầm nhìn 2020' của khu vực Đông Bắc; Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sikkim, Cựu thành viên, Ban Cố vấn An ninh Quốc gia, Chính phủ Ấn Độ, Email: mahendralama1961@gmail.com

Nguồn:

Viết bình luận

Bình luận

Cùng chuyên mục