Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

banner-vi banner-vi

Xây dựng lòng tin cho an ninh hạt nhân Nam Á

Xây dựng lòng tin cho an ninh hạt nhân Nam Á

Khi Trung Quốc tăng cường năng lực cho Pakistan và các cuộc khủng hoảng bùng phát, việc thiếu vắng cơ chế giảm thiểu rủi ro hạt nhân được thể chế hóa khiến Nam Á rơi vào tình thế nguy hiểm.

11:38 09-12-2025 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Vào tháng 4 năm 2025, vụ tấn công khủng bố ở Pahalgam đã khiến 26 thường dân thiệt mạng. Ấn Độ đã trả đũa bằng Chiến dịch Sindoor vào ngày 6-7 tháng 5 bằng cách phát động một cuộc tấn công dẫn đường chính xác vào chín mục tiêu cơ sở hạ tầng khủng bố ở Pakistan và vùng Jammu và Kashmir do Pakistan chiếm đóng (PoJK). Đầu năm 2025, Trung Quốc đã ký một hiệp ước cung cấp các hệ thống phòng không tiên tiến cho Pakistan và tăng cường hỗ trợ quân sự, củng cố quan hệ đối tác chiến lược với Pakistan. Sau các cuộc tấn công của Ấn Độ, các nhà ngoại giao Trung Quốc liên tục tuyên bố ủng hộ quyền tự vệ của Pakistan.

Mối quan hệ đối tác này thường gây ra vấn đề cho Ấn Độ. Trong Chiến dịch Sindoor, các hoạt động thù địch quân sự đã làm dấy lên lo ngại về leo thang hạt nhân, làm nổi bật lỗ hổng trong cơ cấu giảm thiểu rủi ro hạt nhân của khu vực. Hơn nữa, các báo cáo gần đây cho thấy Pakistan phụ thuộc vào Trung Quốc để nâng cấp năng lực hạt nhân, cùng với những lo ngại trong khu vực, đã làm nổi bật sự thiếu vắng các biện pháp xây dựng lòng tin được thể chế hóa trong khu vực.

Sự khác biệt giữa chủ nghĩa khủng bố xuyên biên giới và nỗi sợ hạt nhân chiến lược mà nó khơi dậy là triệu chứng của một vấn đề sâu xa hơn, mang tính cấu trúc. Các chủ thể phi nhà nước không gây ra leo thang hạt nhân ở Nam Á. Thay vào đó, nó là kết quả của sự thiếu vắng cố hữu các cơ chế giảm thiểu rủi ro chính thức giữa các cường quốc khu vực.

Bối cảnh chiến lược của Nam Á sau năm 1998

Chiến tranh Kargil là cuộc xung đột đầu tiên giữa hai cường quốc hạt nhân công khai kể từ Chiến tranh Lạnh. Mặc dù cả hai quốc gia đều sở hữu vũ khí hạt nhân, nhưng cuộc chiến này mang tính thông thường và hạn chế, mặc dù được tiến hành dưới sự bảo vệ của chiếc ô hạt nhân.

Trong khi cuộc xung đột nhấn mạnh cách răn đe hạt nhân có thể ngăn chặn các cuộc chiến tranh lớn, nó cũng cho phép và thậm chí khuyến khích các cuộc xâm lược thông thường có giới hạn, minh họa cho nghịch lý ổn định-bất ổn. Cũng có những tín hiệu mơ hồ về leo thang hạt nhân. Pakistan đã truyền tải các mối đe dọa hạt nhân thông qua các kênh truyền thông và ngoại giao. Sự mơ hồ của các ranh giới đỏ làm gia tăng nguy cơ leo thang hạt nhân. Cuộc xung đột cũng nhấn mạnh vai trò của các bên thứ ba trong các cuộc khủng hoảng hạt nhân. Sự can thiệp của Mỹ, do Tổng thống Mỹ khi đó là Bill Clinton dẫn đầu, đã giúp xoa dịu căng thẳng, buộc Pakistan phải rút lui.

Sau Chiến tranh Kargil, Ấn Độ chính thức công bố học thuyết hạt nhân của mình vào năm 2003, tập trung vào khả năng răn đe tối thiểu đáng tin cậy, duy trì khả năng trả đũa đủ lớn để gây ra thiệt hại không thể chấp nhận được cho bất kỳ kẻ xâm lược nào. Cốt lõi của học thuyết này là việc tái khẳng định chính sách Không sử dụng trước (NFU), cùng với tư thế trả đũa chắc chắn bằng cách đánh đổi sự linh hoạt về mặt chiến thuật. Ấn Độ đã củng cố cấu trúc chỉ huy và kiểm soát của mình và, để đảm bảo khả năng tấn công trả đũa, đã đẩy nhanh việc phát triển bộ ba hạt nhân và các phương tiện phóng trên bộ, trên không và trên biển. Để đối trọng với học thuyết hạt nhân của Ấn Độ, Pakistan, mặt khác, đã chuyển sang răn đe toàn diện và phát triển nhiều năng lực hạt nhân, bao gồm cả vũ khí hạt nhân chiến thuật (TNW), chẳng hạn như tên lửa Nasr. Quyết định của Pakistan nhằm tránh chính sách NFU đã được công bố và tìm kiếm sự linh hoạt trong hoạt động thông qua vũ khí hạt nhân chiến thuật vẫn còn mơ hồ, làm tăng nguy cơ leo thang khủng hoảng nhanh chóng. Điều này càng nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết về các cơ chế liên lạc hiệu quả nhưng còn đang thiếu vắng.

Hơn nữa, mặc dù Trung Quốc không phải là một bên tham gia Chiến tranh Kargil, nhưng nước này đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định động lực hạt nhân ở Nam Á. Mối quan hệ hạt nhân và quân sự với Pakistan, cùng với sự cạnh tranh chiến lược với Ấn Độ, chỉ làm gia tăng thêm những bất ổn hạt nhân trong khu vực. Ngay cả khi thực hiện răn đe tối thiểu và NFU trên lý thuyết, quá trình hiện đại hóa hạt nhân nhanh chóng của Bắc Kinh, thể hiện qua việc triển khai nhiều tên lửa đạn đạo xuyên lục địa có khả năng nhắm mục tiêu độc lập (MIRV) và tên lửa siêu thanh lướt (HGV), cùng với việc củng cố bộ ba hạt nhân, đã làm gia tăng nhận thức về mối đe dọa ở Ấn Độ. Điều này càng được củng cố bởi mỗi cuộc cạnh tranh và xung đột chiến lược, bao gồm cả xung đột Galwan năm 2020 và sự cạnh tranh ngày càng gia tăng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Ngoài ra, việc Trung Quốc được cho là hỗ trợ quân sự và chuyển giao công nghệ cho Pakistan đã làm tăng thêm một lớp phức tạp cho các tính toán răn đe của Ấn Độ.

Hết lần này đến lần khác, sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho Pakistan đã làm gia tăng căng thẳng khu vực, mà trong hầu hết các trường hợp, chỉ tan biến sau khi có sự can thiệp toàn cầu, như đã thấy trong cuộc khủng hoảng Kargil. Ngay cả với sự phát triển về mặt học thuyết, tiểu lục địa này vẫn không có các hiệp định kiểm soát vũ khí chính thức hay cơ chế quản lý khủng hoảng. Không có đường dây nóng hạt nhân trực tiếp, không có thanh sát qua lại, và không có các thỏa thuận đa phương hay song phương nào để tránh leo thang. Khoảng cách thể chế này đã dẫn đến việc phụ thuộc quá mức vào các biện pháp can thiệp ngoại giao tạm thời, như trong cuộc khủng hoảng Kargil, tạo ra hiện trạng bất ổn, trong đó mọi cuộc khủng hoảng đều có thể nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát do nguy cơ hạt nhân. Mặc dù có một số biện pháp xây dựng lòng tin giữa các cuộc thử tên lửa của Ấn Độ và Pakistan, nhưng những biện pháp này bị cản trở bởi sự thiếu tin tưởng. Khu vực này vẫn tiếp tục tồn tại trong bối cảnh bất ổn về học thuyết. Ngoại giao đa phương, mặc dù rất quan trọng, vẫn chưa được sử dụng hiệu quả do những nghi ngờ sâu sắc và chính trị quyền lực địa phương.

Can thiệp đa phương vì an ninh khu vực Nam Á

Cuộc chiến Kargil là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hạt nhân của Nam Á, bởi những thay đổi về học thuyết mà nó gây ra, và cũng bởi sự thiếu vắng các cơ chế kiểm soát vũ khí khu vực. Các chủ thể khu vực đã không thể chuyển hóa bài học từ các cuộc khủng hoảng trong quá khứ thành các khuôn khổ xây dựng lòng tin có cấu trúc và thể chế hóa. Với việc Pakistan hạ thấp ngưỡng hạt nhân, Trung Quốc đẩy mạnh hiện đại hóa hạt nhân, và Ấn Độ điều chỉnh tư thế răn đe, nguy cơ tính toán sai lầm ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, cơ cấu quản lý những rủi ro này vẫn còn kém phát triển một cách đáng lo ngại.

Vụ tấn công Pahalgam và sự trỗi dậy trở lại của những lo ngại về hạt nhân dưới những vụ tấn công như vậy ngay cả trong thời hiện đại đã làm nổi bật sự trì trệ trong việc xây dựng lòng tin ở khu vực bất ổn này, cũng như sự thiếu hụt ngoại giao đa phương. Về mặt khu vực, Ấn Độ phải tìm kiếm các hiệp ước giảm thiểu rủi ro hạt nhân chính thức và lấy cảm hứng từ các hiệp ước truyền thống như Hiệp ước START Mới giữa Mỹ và Nga, ưu tiên truyền thông trong khủng hoảng có hệ thống và tăng cường minh bạch về mặt học thuyết.

Đây không phải là một nỗ lực dễ dàng, xét đến những căng thẳng lịch sử trong quan hệ song phương giữa Ấn Độ và Pakistan; những sắc thái riêng biệt của khu vực sẽ hiện hữu và đòi hỏi phải tập trung vào các khuôn khổ giảm thiểu rủi ro. Trên bình diện quốc tế, Ấn Độ có thể đạt được mục tiêu giảm thiểu rủi ro và nâng cao trách nhiệm giải trình toàn cầu bằng cách tận dụng các mối quan hệ chiến lược với Mỹ, Pháp, Úc và Nhật Bản để tạo áp lực ngoại giao phối hợp lên Pakistan và Trung Quốc. Họ có thể giúp ngăn chặn các hành động gây bất ổn của Pakistan và cân bằng sự quyết đoán trong khu vực của Trung Quốc, xét đến ảnh hưởng toàn cầu và vai trò lãnh đạo của nước này trong vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân. Họ có thể nêu lên những lo ngại như vậy tại các diễn đàn đa phương để giảm thiểu căng thẳng hạt nhân và khuếch đại lời kêu gọi về sự ổn định khu vực và kiềm chế hạt nhân.

Những quan hệ đối tác như vậy có thể giúp cải thiện thế trận răn đe của Ấn Độ, giảm thiểu leo ​​thang khủng hoảng và thúc đẩy các cơ chế xây dựng lòng tin khu vực mà không làm gia tăng căng thẳng quân sự. Tương tự, sự hỗ trợ đa phương có thể khuyến khích giám sát hoạt động xuất khẩu công nghệ lưỡng dụng của Trung Quốc sang Pakistan, tăng cường giám sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và củng cố các hướng dẫn kiểm soát xuất khẩu của Nhóm các Nhà cung cấp Hạt nhân.

Cán cân hạt nhân ở Nam Á đang rất mong manh, chủ yếu do các xung đột di sản, khác biệt về học thuyết và động lực ba bên đang thay đổi nhanh chóng giữa Ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc. Mặc dù Ấn Độ đã thể hiện sự kiềm chế chiến lược, nhưng họ không thể chỉ dựa vào lập trường này trong bối cảnh các nước láng giềng ngày càng quyết đoán về hạt nhân. Những lo ngại chiến lược trong vụ tấn công Pahalgam phải nhấn mạnh sự cần thiết phải thể chế hóa các cơ chế giảm thiểu rủi ro hạt nhân, vượt ra ngoài các phản ứng thụ động trong xung đột. Các liên minh đa phương có thể đóng vai trò là chất xúc tác để chính thức hóa các cấu trúc này và giúp Ấn Độ dẫn đầu trong việc thúc đẩy các hiệp ước kiểm soát vũ khí chính thức, các thỏa thuận ranh giới đỏ và các kênh liên lạc khủng hoảng có cấu trúc.

Viết bình luận

Bình luận

Cùng chuyên mục