Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương: Kỷ nguyên mới của cạnh tranh địa chiến lược (Phần 1)
Tháng 3 năm nay, trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Australia, Bộ trưởng Ngoại giao Australia Julie Bishop tuyên bố “ASEAN là trái tim của chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”. Sự đề cập nhiều lần khái niệm “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” cùng với những động thái chủ động tiếp cận ASEAN và các nước ASEAN cho thấy, Canberra đang nỗ lực đẩy mạnh gia tăng cam kết của mình lên phía Bắc và nhằm biến tầm nhìn chiến lược này thành hiện thực.
Trong một diễn biến khác cũng trong tháng 3/2018, Tổng thống Indonesia khơi dậy những tranh luận lớn khi cho rằng “sẽ là điều tốt nếu Australia gia nhập ASEAN”.
Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương bắt đầu được chú ý đặc biệt khi Tổng thống Mỹ Donald J. Trump mở đầu bài phát biểu của mình tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) tại Đà Nẵng tháng 11/2017 bằng việc bày tỏ sự vinh hạnh được “hiện diện tại Việt Nam - trái tim của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.” Trong suốt chuyến công du châu Á dài gần hai tuần, Tổng thống Mỹ D. Trump đã liên tục sử dụng thuật ngữ này như có hàm ý về chiến lược mới của Mỹ ở khu vực vẫn thường được biết đến là châu Á - Thái Bình Dương (Asia - Pacific).
Vài ngày sau bài phát biểu ở Việt Nam, Tổng thống Mỹ D. Trump đến Philippines và giữa lúc ông gặp gỡ Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe hay Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull, các quan chức của “bộ tứ” Ấn Độ - Nhật Bản - Australia - Mỹ đã có cuộc gặp đầu tiên.
Cuối tháng 3/2018, Economics Times đưa tin cuộc gặp tiếp theo đang được lên kế hoạch trong bối cảnh Trung Quốc vừa sửa hiến pháp, mở đường cho ông Tập tiếp tục nắm quyền sau khi kết thúc 2 nhiệm kỳ và Bắc Kinh có thêm động lực để đẩy mạnh định hình tình hình khu vực. Tình hình trên bán đảo Triều Tiên lẫn cuộc khủng hoảng chính trị ở Maldives cũng sẽ có trong chương trình nghị sự.
“Chúng tôi (bộ tứ) đang trông chờ cuộc gặp tiếp theo. Tình hình hiện tại ở Maldives rõ ràng là thứ chúng tôi có thể thảo luận”, một quan chức chính quyền Mỹ nói gần đây ở Washington D.C. Trung Quốc bị cáo buộc muốn can thiệp nội bộ chính trị Maldives để giữ cho Tổng thống Abdulla Yameen tiếp tục nắm quyền, mở đường xây dựng một căn cứ hải quân ở “sân sau” của Ấn Độ.
Sau chuyến công du châu Á đó của Tổng thống Mỹ D. Trump, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã công bố lần lượt “Chiến lược an ninh quốc gia” và “Chiến lược Quốc phòng” trong đó khẳng định sự ưu tiên của Mỹ với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Những người thân cận với vấn đề cho biết, cuộc gặp thứ hai sẽ diễn ra trong vòng 6 tháng sau cuộc gặp đầu tiên, đã diễn ra hồi tháng 11/2017.
Vậy Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là gì? Tại sao Mỹ lại đặc biệt chú ý và thậm chí đặt ưu tiên cho khu vực này trên cả Châu Âu và Trung Đông? Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sẽ có ý nghĩa thế nào với hoà bình và an ninh trên thế giới và trong khu vực?
Chính trị hóa khái niệm
Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương không phải là một thuật ngữ mới, mà được vay mượn từ lĩnh vực địa - sinh học chỉ vùng nước nhiệt đới trải từ bờ tây Ấn Độ Dương tới Tây và Trung Tây Thái Bình Dương. Người được ghi nhận là học giả đầu tiên sử dụng thuật ngữ này với hàm ý về địa chính trị là tiến sĩ Gurpreet S. Khurana, giám đốc Quỹ Hàng hải quốc gia tại New Delhi, Ấn Độ. Trong bài luận năm 2007 tựa đề “An ninh hàng hải: Triển vọng hợp tác Ấn Độ - Nhật Bản,” tiến sĩ Khurana đã lập luận rằng các lợi ích chung và cốt lõi của Ấn Độ và Nhật Bản về hàng hải sẽ khó có thể được bảo đảm nếu Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương bị chia rẽ trong nhận thức chiến lược. Do đó thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” đã ra đời như là một tầm nhìn chiến lược mới trong khu vực.
Cùng năm 2007, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong nhiệm kỳ đầu của mình đã có bài phát biểu trước Nghị viện Ấn Độ về “sự hợp lưu của hai đại dương” như là “sự kết nối năng động của hai vùng biển tự do và thịnh vượng” ở châu Á. Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sau đó đã được giới chức và học giả Ấn Độ và Nhật Bản ủng hộ, coi là nền tảng của hợp tác toàn diện vì lợi ích chung của hai nước trong thế kỷ XXI. Thuật ngữ Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương lần đầu tiên được một quan chức cấp cao Mỹ sử dụng khi ngoại trưởng Hillary Clinton bài phát biểu năm 2011 tại Honolulu “chúng ta [Mỹ] hiểu tầm quan trọng của lưu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đối với giao thương toàn cầu.”
Nếu như Nhật Bản và Ấn Độ là hai nước đầu tiên nói đến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thì Australia lại là nước phổ biến thuật ngữ này, bởi cả giới học thuật lẫn chính quyền. Stephen Smith, cựu Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc Phòng Australia là một trong những người nhận ra và ủng hộ tích cực chiến lược này trong thời gian dài. Việc Sách Trắng Quốc phòng Australia 2013 đề cập tới Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương như là một khu vực quan trọng trong chiến lược an ninh của nước này khẳng định triển vọng và tính đúng đắn của tư duy mới.
Việc “nâng tầm” đã được giới học giả về chiến lược và quan hệ quốc tế đón nhận một cách sôi nổi với hàng loạt trao đổi và toạ đàm. Và tới cuối năm 2017 khi Mỹ chính thức công nhận thì Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đã vượt qua một ngưỡng mới và trở thành thuật ngữ và bản đồ chiến lược mới của thế kỷ XXI. Với Mỹ, việc mở rộng khái niệm này nhằm gắn kết sự tham gia của Ấn Độ, đồng thời phần nào thể hiện sự khác biệt so với chính quyền cũ với khái niệm “Tái cân bằng”.
Tại sao Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương?
Tuy đã được nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn bao giờ hết so với trước, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vẫn là một ý tưởng đang hình thành. Vẫn còn rất nhiều câu hỏi cần phải làm rõ như những nước nào được coi là thuộc khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và những bước phát triển tiếp theo là gì? Nhưng dù quy mô của khu vực này tới đâu thì có một điều không thể phủ nhận: Ấn Độ Dương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tới an ninh và thương mại thế giới trong thế kỷ XXI bởi nhiều lý do, trong đó đặc biệt là kinh tế, quân sự và chính trị quốc tế.
Tuyến đường biển ở Ấn Độ Dương đóng vai trò quan trọng cho dòng chảy dầu mỏ, khí đốt, và hàng hoá trên thế giới. Đây cũng là nơi có hai eo biển quan trọng nhất với tuyến vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông tới Australia và Đông Á. Trung bình mỗi ngày có 17 triệu thùng dầu mỏ được vận chuyển qua Eo biển Hormuz và 15.2 triệu thùng qua Eo biển Mallacca. Mặt khác, đây cũng là vùng biển nổi tiếng bất ổn định với nạn cướp biển và khủng bố. Trong khi đó năng lực hàng hải của các nước trong khu vực vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy, việc đảm bảo an ninh cho tuyến huyết mạch của kinh tế thế giới được các quốc gia đặc biệt quan tâm.
Bên cạnh các yếu tố về chống cướp biển, khủng bố, hỗ trợ cứu hộ cứu nạn thì còn một nguyên nhân không kém phần quan trọng dẫn tới sự ra đời của chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương: Sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Trong những năm trở lại đây, với sáng kiến Vành đai & con đường (BRI), Trung Quốc đã đầu tư ồ ạt vào xây dựng cơ sở hạ tầng đường bộ, đường sắt, đường biển ở các nước Trung Á, Nam Á và Châu Phi để mở rộng ảnh hưởng của mình. Nhiều dự án làm dấy lên hoài nghi và sự lo ngại ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc như Nhật Bản và Ấn Độ. BRI bị phương Tây chỉ trích là thiếu minh bạch, chất lượng thấp, xâm phạm lãnh thổ và làm nhiều nước nghèo ngập trong nợ nần. Tuy nhiên, sự tham gia ở mức độ khác nhau của đông đảo các nước trong khu vực vào sáng kiến này cho thấy sức ảnh hưởng ngày một gia tăng của Trung Quốc.
Không những chỉ tăng cường mở rộng ảnh hưởng bằng kinh tế, Trung Quốc cũng tăng cường hiện diện quân sự ở Ấn Độ Dương với căn cứ quân sự hải ngoại đầu tiên ở Djibouti phía đông Châu Phi và đang xúc tiến mở thêm các căn cứ không-hải quân khác. Trước nguy cơ lợi ích địa chính trị, kinh tế và các giá trị cốt lõi của mình trong khu vực có thể sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, các cường quốc có liên quan đã nhận thấy cần phải có chiến lược để đối trọng với Trung Quốc. Một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở đã thể hiện rõ tầm nhìn đó. (Xem tiếp phần 2)
Nguồn: https://news.zing.vn/an-do-thai-binh-duong-ky-nguyen-moi-cua-canh-tranh-dia-chien-luoc-post827551.html
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục