Ấn Độ và “chuỗi đảo ngọc” (Phần 1)
New Delhi đang mở rộng sự hiện diện quân sự của họ ở khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng ở khu vực này. Dù còn thua xa Trung Quốc về tài chính cũng như cấp độ và quy mô hiện đại hóa quân đội, nhưng Ấn Độ có ưu thế địa lý và sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quốc tế nhằm thúc đẩy những tính toán theo hướng mà New Delhi mong muốn.
Tóm tắt
Những sức ép trong nội bộ Ấn Độ cũng như việc nước này bị cô lập về địa lý lâu nay khiến New Delhi chỉ chú tâm vào những vấn đề của tiểu lục địa. Nhưng lo sợ bị bao vây trước việc Trung Quốc mở rộng sự hiện diện quân sự cùng với sự lệ thuộc ngày một nhiều hơn vào các tuyến giao thương kinh tế huyết mạch chạy qua các vùng biển tranh chấp, Ấn Độ đang mở rộng sự hiện diện quân sự của mình ở khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Từ bờ biển Đông Nam châu Phi tới mũi eo biển Malacca và đặc biệt là ở Đông Á và Đông Nam Á, Ấn Độ đang tìm cách lôi kéo các nước có vị trí địa chiến lược và giành quyền tiếp cận các hải cảng, căn cứ quân sự ở nước ngoài, cùng với đó là việc nâng cấp cơ sở hạ tầng hải quân, không quân để phát huy ưu thế địa lý của riêng mình - một vùng lãnh thổ biệt lập.
Bản phân tích chuyên sâu này khảo nghiệm logic chiến lược, ưu thế và hạn chế của Ấn Độ trong việc mở rộng sự hiện diện quân sự tại các góc chốt ở bồn địa Ấn Độ Dương. Báo cáo cũng xem xét liệu sự hiện diện ngày càng gia tăng của Ấn Độ có thúc đẩy nỗ lực đang được hình thành nhằm chống lại đà tiến của Trung Quốc hay không. Cuối cùng, tài liệu kết luận, dù còn thua xa Trung Quốc về tài chính cũng như cấp độ và quy mô hiện đại hóa quân đội, nhưng Ấn Độ có ưu thế địa lý và sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quốc tế nhằm thúc đẩy những tính toán theo hướng mà New Delhi mong muốn.
Tại sao Ấn Độ đang vươn ra bên ngoài?
Là nước có tổng chiều dài bờ biển hơn 7.200 km, Ấn Độ chưa bao giờ có tham vọng trong lĩnh vực hàng hải. Điều lạ này xuất phát từ thực tế rằng, Ấn Độ không có nhiều lý do để vươn tầm ra khỏi tiểu lục địa. Xét về mặt địa lý, Ấn Độ được bao bọc bởi dãy núi Himalayas hầu như không thể xuyên phá ở phía Bắc, kế đến là địa hình đồng bằng, rừng nhiệt đới ở phía Đông và sa mạc ở phía Tây, xen vào đó là các khu vực thuộc biển Arập, vịnh Bengal và Đại Tây Dương. Bất kể một cường quốc nào có ý định đe dọa vùng đất trung tâm sẽ phải sử dụng hoặc là đường bộ thông qua bình nguyên Hindu Kush và Indus, hoặc là đường biển. Ở cả hai ngả đường này, đối phương đều phải đối diện với quy mô dân số lớn, khiến việc chinh phục Ấn Độ bằng vũ lực là điều gần như không thể. Các cường quốc sở dĩ thống trị được tiểu lục địa này chủ yếu là nhờ vào việc khai thác những rạn nứt trong nội bộ Ấn Độ. Những kẻ chiếm đóng đầu tiên – thuộc rất nhiều triều đại Hồi giáo từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII rồi ngay sau đó là những người châu Âu cai trị thành công là bởi họ đã tìm cách khiến những người Ấn Độ chống lại nhau, triệt để khai thác sự cạnh tranh giữa các phe nhóm và trung tâm quyền lực để củng cố liên minh của những kẻ cộng tác - những kẻ sẽ phục vụ chủ yếu cho mục tiêu thương mại của kẻ cai trị.
Với đặc điểm lịch sử đó, Ấn Độ nhìn chung chỉ tập trung hướng nội kể từ ngày giành độc lập. Nguồn lực quốc gia - nhà nước tập trung ở khả năng kiểm soát sự chia rẽ nội bộ của chính quyền. Những diễn biến địa chính trị bên ngoài, ngoại trừ các cuộc đối đầu lác đác với Pakistan hay xung đột biên giới thường xuyên với Trung Quốc, đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu, không phải là mối bận tâm thường trực. Nhưng yêu cầu của thời cuộc đã thay đổi, cùng với đó là môi trường chiến lược mở rộng hơn của Ấn Độ.
Để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển, Ấn Độ đã mở rộng lợi ích kinh tế vượt ra ngoài ranh giới tiểu lục địa. Ấn Độ có 1 một tỷ dân và việc duy trì tốc độ tăng trưởng, hiện đại hóa kinh tế vốn cần thiết để nuôi sống số dân này khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng của Ấn Độ, chẳng hạn như năng lượng, ngày càng tăng. Năm 2017, 47% lượng nhiên liệu tiêu thụ tại thị trường nội địa Ấn Độ là từ nguồn nhập khẩu, trong đó dầu mỏ nhập khẩu chiếm đến 80% nhu cầu trong nước. Như một kết cục tất yếu, Ấn Độ đã nhanh chóng mở rộng sự hiện diện hải quân dọc theo các điểm giao thương huyết mạch gần bán đảo Arập và mũi châu Phi - những vùng biển khét tiếng với nạn cướp biển, quân nổi dậy và các mối nguy hiểm thường trực bắt nguồn từ những tranh chấp đối đầu ở Trung Đông. Khoảng 40% hàng hóa thương mại của Ấn Độ được vận chuyển qua một eo biển khác cũng nguy hiểm không kém là Malacca.
Cùng lúc, các cường quốc mới nổi khác cũng mở rộng lợi ích. Trên thực tế, động lực đầu tiên và then chốt nhất thôi thúc Ấn Độ vươn ra bên ngoài chính là sự hiện diện ngày một gia tăng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương. Cả Ấn Độ lẫn Trung Quốc đều không hứng thú với kịch bản tranh giành ngôi bá chủ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Quan ngại chiến lược trung tâm của Trung Quốc là mội loạt các “yết hầu hàng hải” ở bờ biển phía Đông và phía Nam mà một cường quốc hải quân bên ngoài có thể sử dụng để chặn đứt các tuyến giao thương thiết yếu đối với Bắc Kinh. Quan ngại chiến lược chủ chốt của Ấn Độ lại là sự thiếu thống nhất trong nước, cùng với đó là cường quốc hạt nhân thù địch Pakistan ở biên giới phía Tây.
Vấn đề nằm ở chỗ: Khi Trung Quốc tìm cách giải quyết những quan ngại chiến lược của riêng mình ở phía Đông thì những vấn đề thứ cấp ở sườn Tây Nam lại càng trở nên quan trọng hơn, biến Ấn Độ, vốn không có chủ tâm chống lại Trung Quốc, thành mối đe dọa tiềm tàng của Bắc Kinh và ngược lại. Trung Quốc cần tìm ra những con đường mới để không phải lệ thuộc quá nhiều vào những yết hầu hàng hải ở Biển Đông và biển Hoa Đông, đồng nghĩa với việc Bắc Kinh cần các cảng biển nước sâu, những tuyến đường ống năng lượng, đường sắt ở các khu vực được xem là sân sau của Ấn Độ. Và để chuẩn bị cho một cuộc xung đột tiềm tảng có thể cắt đứt các tuyến hàng hải này, Trung Quốc cũng cần phát triển lực lượng hải quân đảm bảo cho các tuyến hàng hải được thông suốt và ngăn chặn lực lượng đối phương tiến đến từ phía Tây – một nỗ lực đòi hỏi Bắc Kinh phải xây dựng mạng lưới các căn cứ và cơ sở hậu cần tại những điểm nòng cốt trong vòng cung ảnh hưởng của Ấn Độ để hỗ trợ bước tiến trên. Chúng ta có thể hoài nghi về triển vọng xây dựng thành công “Chuỗi đảo ngọc” cũng như phát triển lực lượng hải quân đủ sức thống trị các vùng biển khơi của Trung Quốc. Nhưng ý định thực hiện tham vọng này của Bắc Kinh là điều không thể nghi ngờ.
Với Ấn Độ, lý do khiến Bắc Kinh có mối quan ngại chiến lược là việc không có căn cứ, rõ ràng nhất là thực tế Trung Quốc chưa đủ sức gây ảnh hưởng lớn ở Ấn Độ Dương. Cho dù ý định của Trung Quốc là gì đi nữa thì Ấn Độ vẫn cảm thấy bị bao vây bởi một quốc gia dường như có tham vọng quyền lực không suy chuyển, bỗng nhiên quay sang vũ trang cho đối thủ nguy hiểm nhất của New Delhi và dự định xây dựng lực lượng hải quân biển khơi, đẩy Ấn Độ đứng trước nguy cơ không thể xem thường về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận. Vì thế, khi quân đội Trung Quốc tiến vào bồn địa Ấn Độ Dương, Ấn Độ cũng phải khẩn trương mở rộng sự hiện diện của chính mình, ở cả vùng lãnh địa tiếp giáp lẫn sân trước của Ấn Độ.
Đây là điều rất quan trọng, bởi hải quân Ấn Độ tụt hậu khá xa so với tiềm lực hải quân ngày càng lớn của Trung Quốc. Ấn Độ mới chỉ bắt đầu đầu tư lớn cho việc mua sắm vũ khí nhằm triển khai sức mạnh hải quân, đáng chú ý là một hạm đội tàu ngầm nguyên tử mới và một tàu sân bay bản địa đầu tiên, cùng với đó là kho vũ khí tên lửa chống hạm, máy bay giám sát hàng hải, máy bay chống ngầm. Ấn Độ cũng đã xem xét việc thừa hưởng những kinh nghiệm tác chiến quý giá từ hải quân Anh. Ngay cả khi không có hy vọng kiềm chế hoạt động của Trung Quốc ở vùng biển Ấn Độ Dương rộng lớn, Ấn Độ vẫn có một số lựa chọn để đối phó với Trung Quốc tại những điểm mà New Delhi dễ bị tổn thương nhất.
Vòng cung ảnh hưởng ngày càng mở rộng
Ấn Độ hiện mới chỉ ở giai đoạn sơ khởi của tiến trình vươn tầm ảnh hưởng. Đến nay, Ấn Độ mới chỉ có một căn cứ quân sự duy nhất ở nước ngoài, đặt tại Tajikistan - vốn được xem là hữu ích trong việc kiểm soát Pakistan và để mắt tới sự hiện diện ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở dãy Himalayas, nhưng không có nhiều ý nghĩa đối với lĩnh vực hàng hải. Tuy nhiên, New Delhi đang hướng đến việc phát triển một vài căn cứ hải quân và không quân dọc Ấn Độ Dương. Quan trọng hơn, Chính quyền Tổng thống Narendra Modi đang tạo dựng quan hệ thân thiết với các nước trong khu vực cùng có mối quan ngại chung về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Những quan hệ đối tác này có thể mang lại cho Ấn Độ quyền tiếp cận một mạng lưới các căn cứ hiện hữu vốn đang được một loạt các cường quốc bên ngoài sử dụng.
Sự cạnh tranh về sức mạnh hải quân giữa Ấn Độ với Trung Quốc được thể hiện rõ nhất ở Đông Nam Á. Xét đến kịch bản sự thù địch nghiêm trọng giữa lực lượng hải quân của hai nước bùng phát thành một cuộc đụng độ, Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc rõ ràng áp đảo hải quân Ấn Độ. Nhưng điều này chỉ đúng nếu xung đột nổ ra theo kiểu đối đầu một một ở những vùng biển mở. Còn không, tình hình sẽ khác. Ấn Độ có trong tay lợi thế cố hữu so với Trung Quốc, tương tự như những gì mà Nhật Bản và Mỹ có được: Đó là việc Trung Quốc phụ thuộc quá nhiều vào các tuyến hàng hải chạy qua các điểm yết hầu như eo biển Malacca, Sunda hay Lombok. Trong tình huống xảy ra xung đột, nhiệm vụ chiến lược chủ yếu của Ấn Độ chỉ là hiện diện tại những điểm giúp ngăn chặn tàu chiến Trung Quốc tại những yết hầu này. Ngược lại, Ấn Độ không có bất kỳ huyệt lộ nào nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của mình. Còn những yết hầu có thể đe dọa các tuyến đường hàng hải có vai trò quan trọng với Ấn Độ lại nằm ở bán đảo Arập, cũng là tuyến huyết mạch đối với các cường quốc khác và ở rất xa bờ biển Trung Quốc.
Ưu thế của Ấn Độ trên khía cạnh này nổi bật nhất là ở quần đảo Andaman và Nicobar. Án ngữ ngay phía Nam Myanmar thuộc vùng biển Andaman, quần đảo gồm 527 đảo nhỏ thuộc quyền kiểm soát của Ấn Độ này đóng vai trò là cửa ngõ dẫn tới eo biển Malacca. Đương nhiên, Ấn Độ đang dồn sức xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự của mình tại đây. Hiện nay, quần đảo này tiếp nhận nhiều máy bay do thám và săn ngầm giữ vai trò thiết yếu trong việc giám sát hoạt động của Trung Quốc tại các vùng biển, thế nhưng mới chỉ có một lữ đoàn bộ binh và một số lượng nhỏ tàu tuần tra đóng tại đây. Các nhà hoạch định kêu gọi tăng cường bố trí quân sự đến mức đột phá, đẩy quy mô lên cấp sư đoàn, đưa vào biên chế một số tàu chiến và trong tháng 5/2018, Ấn Độ tuyên bố lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ điều một phi đội máy bay tiêm kích đóng trú tại quần đảo này.
Quần đảo Andaman và Nicobar cũng thúc đẩy quan hệ quân sự mạnh mẽ hơn với các nước Đông Nam Á. Tháng 5/2018, Indonesia đồng ý về mặt nguyên tắc cho phép tàu chiến Ấn Độ tiếp cận một cảng gần đảo Sabang của Indonesia, ngay sát phía Bắc quần đảo Sumatra và có thể mở rộng sang một số đảo khác dọc eo biển Sunda và Lombok. Một tháng sau, một tàu chiến của Ấn Độ lần đầu tiên có chuyến viếng thăm, cập cảng Sabang. New Delhi cũng rất quan tâm đến việc thiết lập hiện diện tại eo biển Malacca. Năm 2017, Ấn Độ và Singapore ký kết một thỏa thuận cho phép triển khai quân sự tạm thời và hỗ trợ nhau về mặt hậu cần tại các căn cứ hải quân của hai nước, trong đó có căn cứ hải quân quan trọng Changi của Singapore - nơi hiện đón tiếp tàu chiến đồn trú luân phiên của Mỹ. (Xem tiếp phần 2)
Phillip Orchard là nhà phân tích của Geopolitical Futures. Trước khi làm việc cho Geopolitical Futures, ông có gần 6 năm làm việc cho tổ chức phân tích tình báo Stratfor.
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục