Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Ấn Độ và quyền tự chủ chiến lược

Ấn Độ và quyền tự chủ chiến lược

Các đối tác của Ấn Độ ở phương Tây phải hiểu rằng, New Delhi muốn hệ thống quốc tế mang tính đại diện hơn theo thực tế địa chính trị

03:00 20-07-2024 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Vào ngày 11 tháng 7 năm 2024, hai ngày sau khi Thủ tướng Narendra Modi kết thúc chuyến thăm đầu tiên tới Moscow kể từ năm 2022, Eric Garcetti, Đại sứ Mỹ tại Ấn Độ, cho biết: "Trong thời kỳ xung đột, không có quyền tự chủ chiến lược; trong những khoảnh khắc khủng hoảng, chúng ta cần phải hiểu nhau". Khi ông Modi ở Nga, vào đêm trước hội nghị thượng đỉnh NATO tại Washington, chính quyền Joe Biden đã bày tỏ "mối quan ngại" của mình một cách công khai. "Chúng tôi đã bày tỏ những [mối quan ngại] đó một cách riêng tư, trực tiếp với chính phủ Ấn Độ và tiếp tục làm như vậy".

Trong khi quỹ đạo chung của quan hệ đối tác chiến lược giữa Ấn Độ và Mỹ có vẻ ổn định, tuy nhiên các điểm căng thẳng đã xuất hiện trong mối quan hệ trong những năm gần đây. Lớn nhất chính là việc Ấn Độ từ chối tuân theo đường lối của phương Tây đối với Nga về cuộc chiến ở Ukraine. Trong khi Mỹ và các đồng minh áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế đối với Nga và cung cấp vũ khí trị giá hàng tỷ đô la cho Ukraine, Ấn Độ vẫn duy trì quan hệ đối tác chiến lược với Moscow, mở rộng hợp tác năng lượng và từ chối lên án cuộc chiến tại các diễn đàn quốc tế, ngay cả khi nước này kêu gọi chấm dứt chiến tranh và thể hiện sự tôn trọng đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia. Đối với Ấn Độ, đây là một lập trường trung lập, nhưng ở phương Tây, đây được coi là sự hỗ trợ kinh tế cho Nga . Điều này đã gây ra những nếp nhăn trong quan hệ đối tác Ấn Độ-Mỹ, vốn đã mở rộng trong hai năm rưỡi qua.

Garcetti cho rằng, quyền tự chủ chiến lược là vô nghĩa trong thời kỳ khủng hoảng đi ngược lại chính tiền đề của quyền tự chủ chiến lược. Một định nghĩa đơn giản về khái niệm này là các quốc gia phải có khả năng đưa ra quyết định phục vụ tốt nhất cho lợi ích quốc gia của mình, bất kể sức hút và áp lực từ các bên khác. Có hai yếu tố trong khái niệm này. Một là niềm tin cố hữu rằng một quốc gia có khả năng đưa ra quyết định phục vụ cho lợi ích của mình. Hai là quốc gia đó phải có ý chí và nguồn lực để đưa ra những quyết định đó ngay cả khi phải đối mặt với áp lực lớn. Vì vậy, nếu Ấn Độ không thể đưa ra quyết định chính sách đối ngoại tự chủ trong thời kỳ "xung đột" và "thời điểm khủng hoảng thì Ấn Độ không thực hiện quyền tự chủ chiến lược của mình.

Kể từ khi giành được độc lập, Ấn Độ luôn theo đuổi quyền tự chủ chiến lược dưới hình thức này hay hình thức khác. Và họ không theo đuổi điều này như một giáo điều mà là một cách tiếp cận chính sách đối ngoại đối với lợi ích của đất nước. Điều này đã mang lại cả nền tảng đạo đức và đòn bẩy thực dụng cho chính sách đối ngoại của Ấn Độ.

Ấn Độ ban đầu vẫn giữ khoảng cách ngang bằng với cả hai khối trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Nhưng sau khi Mỹ thành lập mạng lưới liên minh ở Châu Á và Trung Quốc xích lại gần Mỹ hơn sau khi rời xa Liên Xô, Ấn Độ bắt đầu xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với Moscow, nhưng không từ bỏ quyền tự chủ chiến lược của mình. Và khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ vào năm 1991, Ấn Độ đã chọn hội nhập sâu hơn với nền kinh tế toàn cầu và quan hệ đối tác chiến lược chặt chẽ hơn với phương Tây.

Theo quan điểm của Ấn Độ, trật tự toàn cầu hiện đang thay đổi một lần nữa. Mỹ vẫn là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới nhưng trật tự thế giới không còn đơn cực nữa. Trung Quốc đang trỗi dậy như một đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ với vị thế bá quyền toàn cầu của Mỹ. Nga đang thách thức cấu trúc an ninh phương Tây ở châu Âu về mặt quân sự. Trong một trật tự bất định như thế, Ấn Độ muốn tạo ra sự cân bằng giữa các cường quốc mà không tham gia bất kỳ hệ thống liên minh nào. Và để làm được điều này, việc duy trì quyền tự chủ chiến lược của mình là điều cần thiết.

Ví dụ điển hình là quan hệ với Nga. Trong khi mối quan hệ năng lượng với Nga phần lớn mang tính cơ hội và được thúc đẩy bởi giá rẻ thì quan hệ đối tác quốc phòng lại mang tính cấu trúc. Nga là nguồn cung cấp hơn 40% lượng hàng nhập khẩu quốc phòng của Ấn Độ và 86% thiết bị quân sự của Ấn Độ có nguồn gốc từ Nga. Điều này không thể bị phá vỡ chỉ sau một đêm. Hơn nữa, Nga cũng là đối tác quan trọng ở lục địa Châu Á, nơi Ấn Độ hợp tác với các cường quốc Á-Âu để thúc đẩy tiến bộ kinh tế, kết nối và giải quyết các thách thức về an ninh.

Chắc chắn, mối quan hệ ngày càng sâu sắc của Nga với Trung Quốc đã làm thay đổi bản chất quan hệ đối tác lịch sử của Ấn Độ với Moscow. Nhưng đây cũng là cơ hội để định hình lại quan hệ đối tác Ấn Độ-Nga thành quan hệ đối tác song phương bình đẳng hơn. Ấn Độ không muốn thấy Nga, bị cắt đứt khỏi phương Tây, hoàn toàn rơi vào vòng tay của Trung Quốc. Nếu Ấn Độ là một phần của bất kỳ hệ thống liên minh nào, Ấn Độ sẽ không có không gian chiến lược để theo đuổi quan hệ đối tác với Nga, trong khi vẫn là đối tác gần gũi hơn của phương Tây. Ở đây, quyền tự chủ đóng vai trò chính.

Nước Mỹ không cần phải coi đây là một lựa chọn chính sách đối ngoại không thân thiện. Ấn Độ không phải là một cường quốc xét lại. Họ ủng hộ một trật tự toàn cầu đa phương, và đó là vì họ muốn hệ thống quốc tế mang tính đại diện hơn theo thực tế địa chính trị hiện tại. Thế giới đã đa cực về mặt kinh tế, nhưng một sự chuyển đổi tương tự vẫn chưa diễn ra trong động lực quyền lực của họ. Ấn Độ muốn cải thiện hệ thống nơi tiếng nói của họ và của Nam Bán cầu sẽ được lắng nghe với sự quan tâm lớn hơn. Đối với New Delhi, quyền tự chủ chiến lược có nghĩa là sự tham gia lớn hơn với các trung tâm quyền lực khác nhau bắt nguồn từ lợi ích quốc gia. Các nhà lý thuyết về quyền tự chủ chiến lược coi chính sách đối ngoại là một trò chơi tổng dương, trong đó mọi người đều có lợi. Thật không may, các đối tác của Ấn Độ ở phương Tây, những người đang lo lắng về mối quan hệ của New Delhi với Nga và sự nhấn mạnh của nước này vào quyền tự chủ chiến lược, không đánh giá cao bức tranh toàn cảnh. Cách tiếp cận mang tâm lý đơn cực này không thực sự thành công ngay cả trong thời kỳ đơn cực, như cuộc chiến chống khủng bố kéo dài hai thập kỷ đã chứng minh.

Cùng chuyên mục