Chiến lược Thương mại của Ấn Độ cho Thế kỷ 21: Thuế quan, Chuỗi cung ứng, Đầu tư và Công nghệ
Giới thiệu: Chính sách thương mại trong bối cảnh tầm nhìn Viksit Bharat
Ấn Độ đã đặt ra mục tiêu đầy tham vọng. Quốc gia này hy vọng sẽ chuyển đổi thành một nền kinh tế phát triển với thu nhập bình quân đầu người và chất lượng cuộc sống tương xứng vào năm 2047. Tầm nhìn Viksit Bharat hình dung một nền kinh tế mạnh, có khả năng cạnh tranh toàn cầu và hội nhập các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra cơ hội kinh tế cho người lao động và doanh nghiệp Ấn Độ, góp phần thực hiện quá trình chuyển đổi này thành một nền kinh tế phát triển. Một phần không thể thiếu của tầm nhìn này là một ngành công nghiệp đa dạng và tiên tiến về công nghệ, đóng vai trò là động lực tăng trưởng và tạo việc làm, đồng thời là phương tiện đáp ứng các nhu cầu an ninh của Ấn Độ, củng cố vị thế của Ấn Độ như một cường quốc toàn cầu.
Để đạt được mục tiêu này, cần duy trì tăng trưởng kinh tế ít nhất 8% trong hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này cũng cần tạo ra những công việc được trả lương tương đối cao, đủ sức hấp dẫn hàng triệu người dân Ấn Độ trong độ tuổi lao động. Với khoảng 990 triệu người trong độ tuổi lao động, Ấn Độ hiện đang sở hữu lực lượng lao động tiềm năng lớn nhất thế giới. Điều này vừa là thách thức vừa là cơ hội. Nếu nhóm dân số này được lao động một cách hiệu quả, họ sẽ tạo ra một chu kỳ sản xuất lành mạnh dẫn đến thu nhập và sức cầu, giúp Ấn Độ đạt được mục tiêu Viksit Bharat. Việc tạo ra việc làm hiệu quả như vậy đòi hỏi phải mở rộng nhanh chóng các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, cho phép Ấn Độ tận dụng các động lực cầu trong cả nền kinh tế trong nước và toàn cầu. Do đó, các chiến lược thương mại và đầu tư của Ấn Độ đóng vai trò trung tâm trên con đường hướng tới Viksit Bharat.
Tuy nhiên, con đường tăng trưởng này đang trở nên phức tạp do việc áp dụng tự động hóa và robot ngày càng nhanh chóng trong sản xuất, cùng với các giải pháp AI trong dịch vụ. Các nền kinh tế Đông Á, bao gồm cả Trung Quốc, đã dựa vào chi phí lao động tương đối thấp, được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng tốt và ổn định chính trị, để thu hút các phân khúc thâm dụng lao động của chuỗi giá trị sản xuất đến quốc gia của họ trong quá trình chuyển đổi công nghiệp từ những năm 1980 đến đầu những năm 2000. Giờ đây, người lao động Ấn Độ sẽ phải cạnh tranh không chỉ với người lao động từ các quốc gia khác về năng suất và chi phí, mà còn với robot và tự động hóa do AI dẫn dắt trong các công việc đòi hỏi kỹ năng cao.
Tác giả Autor (2019) đưa ra bằng chứng về một thị trường lao động bị phân cực mạnh do những cú sốc công nghệ như vậy, với lợi nhuận lớn cho người có tay nghề cao và lợi nhuận cùng cơ hội ngày càng thấp cho người lao động ít tay nghề. Điều này cho thấy số lượng việc làm thuộc tầng lớp trung lưu đang giảm đi, đúng vào thời điểm Ấn Độ muốn hàng triệu lao động lương thấp chuyển sang các công việc thuộc tầng lớp trung lưu được trả lương cao hơn để thúc đẩy phát triển kinh tế. Giuntella và cộng sự (2022) chỉ ra rằng, Trung Quốc đang phải đối mặt với thách thức từ việc áp dụng robot bất chấp quy mô và chiều sâu của ngành sản xuất. Việc sử dụng robot ngày càng tăng để nâng cao năng suất và giảm chi phí làm giảm cơ hội kinh tế cho người lao động ít tay nghề ở Trung Quốc. Acemoglu và Restrepo (2020) đã chỉ ra rằng, việc sử dụng robot ngày càng tăng làm giảm tiền lương và việc làm, trong khi Christiansen và Winkler (2019), lấy dòng chảy thương mại giữa Mỹ và Mexico làm ví dụ, đưa ra bằng chứng cho thấy việc tự động hóa ngày càng tăng trong các ngành công nghiệp ở các nước phát triển đã làm giảm cơ hội xuất khẩu cho các nước đang phát triển.
Ấn Độ sẽ phải đối mặt với quá trình chuyển đổi công nghệ đầy thách thức này và những gì đã diễn ra trong nhiều thập kỷ kể từ những năm 1990. Như Bảng 1 dưới đây cho thấy, thị phần của Trung Quốc trong tổng sản lượng sản xuất toàn cầu đã tăng 11,5 lần, từ chỉ 2,5% năm 1990 lên 28,7% vào năm 2020. Hiện tại, Trung Quốc chiếm gần một phần ba tổng sản lượng sản xuất toàn cầu. Không một nền kinh tế nào khác thống trị ngành sản xuất toàn cầu như Trung Quốc hiện nay. Thị phần xuất khẩu sản xuất toàn cầu của Trung Quốc tăng nhẹ từ 1,5% lên 1,8% trong giai đoạn 1990-2000. Tuy nhiên, con số này đã tăng theo cấp số nhân sau năm 2000, sau khi Trung Quốc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đạt 14% vào năm 2023.
Bảng 1: Tỷ trọng trong sản lượng sản xuất toàn cầu

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu của UNCTAD
Trung Quốc không chỉ thống trị xuất khẩu hàng hóa sản xuất thâm dụng lao động (thị phần toàn cầu tăng từ 11% lên 32% từ năm 2000 đến năm 2022), mà các nhà kinh tế còn gọi đó là "Cú sốc Trung Quốc". Nền kinh tế và xuất khẩu hàng hóa sản xuất của Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ chưa từng có trong ba năm qua, cũng như xuất khẩu hàng hóa sản xuất công nghệ cao (thị phần toàn cầu tăng từ chỉ 4,5% lên 25,6% từ năm 2000 đến năm 2022), như minh họa trong Hình 1 bên dưới.
Hình 1: Thị phần xuất khẩu sản xuất toàn cầu
Tỷ lệ sản phẩm thâm dụng lao động
.jpg)
Tỷ lệ sản phẩm công nghệ cao
.jpg)
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên Giải pháp thương mại tích hợp thế giới (WITS) của tổ chức UN COMTRADE
Tác động của sự gia tăng nhanh chóng và chưa từng có này càng trở nên trầm trọng hơn bởi thực tế là Trung Quốc phần lớn theo đuổi chính sách trọng thương, khuyến khích xuất khẩu và sản xuất trong khi hạn chế tiêu dùng và nhập khẩu. Khoảng cách giữa xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc đã ngày càng nới rộng kể từ đầu những năm 2000 (xem hình 2 bên dưới). Điều quan trọng cần lưu ý là thị phần xuất khẩu toàn cầu của Trung Quốc không tăng kể từ năm 2016 và vẫn ổn định ở mức khoảng 13% đến 14%. Sự trì trệ này một phần là do các biện pháp bảo hộ thuế quan nhắm vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc được thực hiện trong chính quyền Trump đầu tiên và các biện pháp bảo hộ ở EU và một số nước châu Á khác. Tuy nhiên, thị phần của Trung Quốc trong sản lượng sản xuất toàn cầu vẫn tiếp tục tăng, được hỗ trợ bởi sự hỗ trợ của nhà nước, do đó làm tăng nguy cơ tạo ra tình trạng dư thừa công suất toàn cầu trên nhiều lĩnh vực.

Nguồn: Cơ sở dữ liệu chỉ số phát triển thế giới dựa trên tính toán của tác giả, Ngân hàng Thế giới
Sự tăng trưởng chưa từng có và mất cân bằng của ngành sản xuất Trung Quốc cùng với sự thống trị của nước này trong xuất khẩu sản xuất đã dẫn đến tình trạng kinh tế khó khăn nghiêm trọng và mất việc làm. Caliendo và cộng sự (2019) và Autor và cộng sự (2013) cung cấp bằng chứng về sự sụt giảm việc làm đáng kể như vậy do cái gọi là "Cú sốc Trung Quốc". Một báo cáo của Rhodium Group từ năm 2024 nhấn mạnh rằng các nước đang phát triển đã bị ảnh hưởng đặc biệt tiêu cực bởi các chính sách trọng thương của Trung Quốc.
Thế giới phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đã tạo điều kiện cho Trung Quốc, một chính thể phi dân chủ và một nền kinh tế phi thị trường, gia nhập vào cấu trúc thương mại dựa trên luật lệ của nền kinh tế toàn cầu như được đại diện bởi WTO năm 2000, với hy vọng rằng việc hội nhập ngày càng tăng với nền kinh tế toàn cầu và thu nhập tăng sẽ dẫn đến một quá trình chuyển đổi dân chủ. Rõ ràng là những diễn biến ở Trung Quốc thực sự đang đi theo hướng ngược lại. Chừng nào các hoạt động thương mại không công bằng của Trung Quốc còn ảnh hưởng nhiều đến các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, với những tác động tiêu cực chủ yếu đến các nước đang phát triển như Ấn Độ, thì các quốc gia phương Tây (và Nhật Bản) còn ít quan tâm (Banerjee và cộng sự, 2025a). Trên thực tế, nhiều nhà kinh tế phương Tây lập luận rằng trợ cấp của Trung Quốc đã giúp kiểm soát lạm phát ở nước họ và các bộ phận và linh kiện công nghiệp rẻ hơn của Trung Quốc đã nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp phương Tây.
Tuy nhiên, khi Trung Quốc bắt đầu thách thức sự thống trị của các nền kinh tế phương Tây trong các lĩnh vực công nghệ cốt lõi, các nước phương Tây bắt đầu phản ứng bằng các chính sách bảo hộ mạnh mẽ hơn và sự hỗ trợ của nhà nước cho các ngành công nghiệp của chính họ, thường vi phạm các quy tắc toàn cầu mà chính họ đã ủng hộ vài thập kỷ trước. Các chính sách thuế quan dưới thời chính quyền Trump và các chính sách công nghiệp như Đạo luật Giảm Lạm phát (IRA) và Đạo luật CHIPS dưới thời chính quyền Biden là những ví dụ về những chính sách bóp méo thương mại như vậy. EU đã tích cực sử dụng các chính sách môi trường, chẳng hạn như các Biện pháp Điều chỉnh Biên giới Carbon (CBAM), làm vỏ bọc cho chủ nghĩa bảo hộ. Phản ứng của phương Tây đối với sự mất cân bằng toàn cầu do Trung Quốc gây ra cũng đang thu hẹp các cơ hội toàn cầu dành cho các nước đang phát triển lớn như Ấn Độ, chính xác vào thời điểm mà họ cần tận dụng những cơ hội đó nhất.
Một mối lo ngại lớn khác phát sinh từ sự thống trị của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu toàn cầu là những lỗ hổng gây ra cho chuỗi cung ứng toàn cầu do quá phụ thuộc vào Trung Quốc (hoặc bất kỳ quốc gia nào). Trung Quốc chiếm tối thiểu 65% thị phần nhập khẩu 407 sản phẩm cực kỳ quan trọng, vì chúng liên quan đến an ninh quốc gia, y tế, nông nghiệp (phân bón), năng lượng tái tạo hoặc là đầu vào trung gian quan trọng cho công nghiệp. Sự phụ thuộc này có thể dễ dàng bị Trung Quốc lợi dụng, như được chứng minh bằng trường hợp gần đây khi Trung Quốc hạn chế xuất khẩu máy móc thiết bị quan trọng để làm chậm quá trình chuyển dịch sản xuất điện thoại thông minh sang Ấn Độ, hoặc việc kiểm soát xuất khẩu các sản phẩm từ tính công nghiệp có ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp, bao gồm cả ngành công nghiệp ô tô, là những ví dụ điển hình về việc lợi dụng chuỗi cung ứng như vậy.
Trung Quốc cũng sử dụng chiến thuật định giá phá hoại để loại bỏ bất kỳ năng lực nội địa nào mà một quốc gia có, qua đó làm tăng sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Tại Ấn Độ, điều này thể hiện rõ trong trường hợp của một số hóa chất là Thành phần Dược phẩm Hoạt tính (API) thiết yếu đối với ngành công nghiệp dược phẩm của Ấn Độ. Do đó, việc giảm sự phụ thuộc, đặc biệt là vào các đối tác thương mại không đáng tin cậy, có lợi ích địa chính trị không phù hợp với Ấn Độ, có tầm quan trọng đáng kể.
Chính sách thương mại - đầu tư của Ấn Độ phải tính đến và giải quyết những thách thức cơ bản này. Ấn Độ cần thiết lập các thỏa thuận thương mại đảm bảo tiếp cận chắc chắn các thị trường trọng điểm và xóa bỏ cả rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với hàng xuất khẩu của mình. Việc tiếp cận thị trường chắc chắn như vậy sẽ thu hút FDI và cho phép Ấn Độ tận dụng các cơ hội toàn cầu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc thực hiện các thỏa thuận đó đòi hỏi phải giảm bớt các rào cản thuế quan của chính mình. Ấn Độ phải đàm phán các lộ trình tối ưu để tự do hóa thuế quan, cho phép Ấn Độ cung cấp sự bảo vệ chiến lược từ ngắn hạn đến trung hạn cho các ngành công nghiệp trọng điểm, tạo điều kiện cho ngành phát triển đồng thời bảo vệ các ngành dễ bị tổn thương của nền kinh tế. Hơn nữa, Ấn Độ phải đảm bảo rằng các ngành được coi là một đối tác đáng tin cậy và không bị từ chối các công nghệ thiết yếu.
Một ưu tiên khác là giải quyết các hành vi thương mại không công bằng, đặc biệt là những hành vi xuất phát từ các nền kinh tế phi thị trường. Đồng thời, Ấn Độ cần ủng hộ sự linh hoạt trong các quy tắc toàn cầu về chính sách công nghiệp, cho phép nước này thực hiện các chiến lược thúc đẩy tăng trưởng sản xuất và đưa phần lớn dân số thoát khỏi đói nghèo và gia nhập tầng lớp trung lưu. Điều này đòi hỏi phải thuyết phục các đối tác kinh tế chính của mình về sự cần thiết của những linh hoạt này để theo đuổi các chính sách công nghiệp thông minh, có mục tiêu và hiệu quả, đồng thời không hoàn toàn phù hợp với các quy tắc của WTO về trợ cấp và hỗ trợ nhà nước cho các ngành công nghiệp.
Một mục tiêu chính sách quan trọng khác là tăng cường hơn nữa lợi thế cạnh tranh của Ấn Độ trong các dịch vụ kỹ năng cao. Số hóa ngày càng tăng đang khuếch đại quy mô và phạm vi của thương mại dịch vụ. Khi lao động lành nghề Ấn Độ mang lại mức độ cạnh tranh ngày càng tăng cho người lao động ở các nước phát triển trong nhiều ngành nghề khác nhau, chính phủ các nước này sẽ chịu áp lực ngày càng lớn trong việc bảo vệ người lao động của mình khỏi sự cạnh tranh từ Ấn Độ. Ấn Độ sẽ cần ngăn chặn chủ nghĩa bảo hộ này và đảm bảo rằng lợi ích kinh tế của thương mại dịch vụ, vốn có thể tạo ra hàng triệu việc làm được trả lương cao và góp phần tạo ra một cuộc cách mạng tầng lớp trung lưu đô thị với quy mô gấp nhiều lần so với cuộc cách mạng do công nghệ thông tin dẫn dắt trong những năm 2000, không bị cản trở bởi những áp lực bảo hộ như vậy (Banerjee và cộng sự, 2025b). Như hình 3 bên dưới cho thấy, Ấn Độ tự hào có nhóm người có trình độ đại học lớn nhất thế giới. Việc tận dụng hiệu quả nguồn nhân tài này sẽ là một khía cạnh quan trọng trong quá trình chuyển đổi thành công của Ấn Độ thành một nền kinh tế phát triển. Các phần sau sẽ thảo luận về chính sách thương mại liên quan đến các mục tiêu cụ thể như đảm bảo tiếp cận thị trường cho hàng xuất khẩu của Ấn Độ, thu hút đầu tư và tăng cường khả năng tiếp cận công nghệ cho các công ty Ấn Độ. Chúng tôi cũng sẽ xem xét vai trò của các thỏa thuận song phương trong việc thúc đẩy chuỗi cung ứng linh hoạt hơn.
Các Hiệp định Thương mại và Tiếp cận Thị trường
Tăng trưởng bền vững của ngành sản xuất và dịch vụ Ấn Độ sẽ đòi hỏi phải tận dụng cả cơ hội trong nước và quốc tế. Do đó, việc đảm bảo tiếp cận thị trường chắc chắn vào các nền kinh tế và khu vực tăng trưởng lớn trên thế giới là ưu tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ. Ấn Độ đã có các FTA với Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Khu vực Thương mại Tự do Châu Âu (EFTA) và Vương quốc Anh. Hiện tại, Ấn Độ đang theo đuổi các FTA với hầu hết các nền kinh tế công nghiệp lớn khác, bao gồm Úc, Liên minh Châu Âu (EU) và Mỹ.
Sau khi đàm phán FTA với UAE, Ấn Độ đang tích cực xem xét khởi xướng các thỏa thuận với Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC) khác, hiện đang thảo luận với Nga và các quốc gia thành viên khác của Liên minh Kinh tế Á-Âu (EAEU) về FTA. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đang tích cực đàm phán với các nền kinh tế lớn ở Châu Phi và Mỹ Latinh về FTA. Mục tiêu tổng thể là thiết lập FTA với tất cả các nền kinh tế G20, ngoại trừ Trung Quốc, vào năm 2030, cũng như với các khu vực mới nổi chủ chốt ở Châu Phi và các quốc gia thành viên Mỹ Latinh, bao gồm cả Ả Rập Xê Út.
Theo các quy tắc của WTO, cái gọi là thuế quan MFN của Ấn Độ áp dụng cho tất cả các quốc gia thành viên WTO, bao gồm cả những quốc gia bóp méo thương mại phi thị trường như Trung Quốc. Do đó, Ấn Độ không thể phân biệt đối xử và áp đặt mức thuế cao hơn đối với các nền kinh tế phi thị trường trong khi áp dụng mức thuế thấp hơn đối với các nền kinh tế khác. Tuy nhiên, Ấn Độ có thể giảm thuế quan mà không vi phạm các quy tắc WTO đối với tất cả các quốc gia hoặc khu vực mà Ấn Độ đã đàm phán FTA. Ấn Độ nên đặt mục tiêu đàm phán và hoàn tất các FTA như vậy với tất cả các nền kinh tế và đối tác thương mại lớn vào năm 2030. Các đối tác FTA này sẽ chiếm một phần đáng kể trong thương mại toàn cầu thuộc phạm vi của FTA. Như Hình 4a và 4b dưới đây minh họa, chiến lược FTA của Ấn Độ sẽ hội nhập quốc gia này với các nền kinh tế chiếm hai phần ba GDP toàn cầu và hơn hai phần ba nhu cầu nhập khẩu toàn cầu. Do đó, thuế quan MFN của Ấn Độ trên thực tế sẽ chỉ áp dụng cho Trung Quốc và các nền kinh tế phi thị trường khác mà Ấn Độ chưa đàm phán FTA.
Về mặt chiến lược, điều này sẽ tạo cho Ấn Độ không gian chính sách để đạt được hai mục tiêu quan trọng. Thứ nhất, tăng thuế suất MFN càng cao càng tốt để chống lại các hành vi bóp méo thương mại phi thị trường của các nền kinh tế phi thị trường, đồng thời đảm bảo chúng không ảnh hưởng đến thương mại với các nền kinh tế thị trường lớn khác, vốn sẽ được hưởng mức thuế suất FTA thấp hơn nhiều. Thứ hai, sử dụng thuế suất MFN cao như vậy một cách chiến lược để giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu và tính dễ bị tổn thương của chuỗi cung ứng, đồng thời tận dụng nguồn cung ứng “chung bờ biển” từ các đối tác FTA ưu tiên.
Chiến lược FTA của Ấn Độ hoàn toàn phù hợp với tầm nhìn của Atmanirbhar Bharat. Cho đến nay, Ấn Độ phần lớn đã thành công trong việc loại trừ một số lĩnh vực khỏi quá trình tự do hóa thị trường hoặc đảm bảo các giai đoạn chuyển tiếp khá dài trước khi mở cửa thị trường cho các lĩnh vực chiến lược quan trọng, vốn là một phần không thể thiếu trong chiến lược chính sách công nghiệp dài hạn (mà chúng tôi sẽ thảo luận sau). Điều này sẽ tạo ra một khoảng nghỉ trước khi các lĩnh vực này phải đối mặt với cạnh tranh nước ngoài khi thuế quan giảm. Ấn Độ sẽ cần tận dụng quy mô thị trường nội địa và tăng cường quy mô cũng như năng lực trong các lĩnh vực quan trọng này, những lĩnh vực được dự đoán sẽ thống trị nền kinh tế toàn cầu trong tương lai.
Các rào cản phi thuế quan liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm, an ninh quốc gia, an toàn người tiêu dùng, sức khỏe và môi trường đang trở thành những rào cản thương mại lớn hơn cả thuế quan. Do đó, Ấn Độ phải đảm bảo rằng những rào cản phi thuế quan này không cản trở các cơ hội xuất khẩu. Để đạt được điều này, Ấn Độ cần xác định các điều khoản đổi mới trong các FTA, tập trung vào việc giảm thiểu chi phí tuân thủ các tiêu chuẩn và quy định này cho các nhà xuất khẩu của Ấn Độ. Ấn Độ chưa thành công trong lĩnh vực này, khiến nó trở thành một lĩnh vực quan trọng cần được phát triển và ứng dụng hơn nữa khi quốc gia này thúc đẩy chiến lược FTA.
Các dịch vụ được cung cấp kỹ thuật số được thiết lập để ngày càng thống trị chuỗi giá trị toàn cầu. Ấn Độ là trung tâm của các Trung tâm Năng lực Toàn cầu (GCC) làm trung gian cho các chuỗi giá trị mới nổi này. Sự phát triển của các GCC đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy cuộc cách mạng "tầng lớp trung lưu" tiếp theo ở Ấn Độ, tạo ra hàng triệu việc làm lương cao tại quốc gia này. Các FTA của Ấn Độ với các nền kinh tế chủ chốt phải bao gồm các biện pháp ngăn chặn bất kỳ chủ nghĩa bảo hộ nào trong việc tiếp cận thị trường cho xuất khẩu dịch vụ của Ấn Độ. Nhiều biện pháp bảo hộ này hiện chưa có, chưa được thảo luận hoặc chưa được áp dụng, vì vậy vẫn còn thời gian để ngăn chặn. Mặc dù Ấn Độ đã đảm bảo một số cam kết ràng buộc về việc cung cấp dịch vụ kỹ thuật số xuyên biên giới, nhưng đây vẫn là một công việc đang được tiến hành và cần có một chiến lược toàn diện hơn trên mặt trận này.
Hình 4a – Tỷ trọng trong GDP toàn cầu

Hình 5a – Tỷ trọng trong nhập khẩu toàn cầu trong 5 năm (2019-23)

Việc đảm bảo cơ hội việc làm có thu nhập cho lực lượng lao động đông đảo của Ấn Độ đòi hỏi phải tận dụng nhu cầu lao động toàn cầu, đặc biệt ở các quốc gia có dân số già hóa, nơi nhu cầu này có khả năng xuất hiện. Các chương về dịch vụ trong các FTA mang đến cho Ấn Độ cơ hội đảm bảo các cam kết ràng buộc về tính di động của lao động dịch vụ lành nghề. Hơn nữa, Ấn Độ cần chủ động tìm kiếm các thỏa thuận di động song phương độc lập ngoài các FTA, cho phép người lao động công nghiệp và lao động dịch vụ tay nghề thấp của Ấn Độ tìm được việc làm trên toàn cầu.
Đầu tư và Công nghệ
Các FTA đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư vào quốc gia. Như đã đề cập trước đó, FTA mang lại khả năng dự đoán về thuế quan thông qua các cam kết ràng buộc về giảm thuế quan và các khía cạnh pháp lý của thương mại. Do đó, các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư nhiều hơn do rủi ro từ các cú sốc chính sách giảm đi sau khi FTA được thiết lập. Có bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ về mối liên hệ giữa việc tự do hóa thuế quan ràng buộc và khả năng dự đoán về pháp lý trong FTA với sự gia tăng đáng kể FDI. Tác động của FTA đối với việc thúc đẩy FDI đặc biệt rõ ràng trong các thỏa thuận giữa các nước phát triển và đang phát triển (Laget và cộng sự, 2021).
Chính sách FTA của Ấn Độ được hoạch định chiến lược dựa trên mối liên kết FTA-FDI, đó là lý do tại sao Ấn Độ ưu tiên các FTA với các nền kinh tế công nghiệp lớn. Mặc dù mối liên kết FTA-FDI theo truyền thống là ngầm định, Ấn Độ đã đưa ra những đổi mới trong các quy tắc FTA để tạo một mối liên kết rõ ràng. Điều quan trọng cần lưu ý là Hiệp định Thương mại Tự do Ấn Độ-EFTA (TEPA) là FTA đầu tiên trên thế giới thiết lập rõ ràng một quy tắc liên kết các kết quả tiếp cận thị trường với FDI.
Thỏa thuận thừa nhận rằng một sự đánh đổi cơ bản trong các FTA với các nước tiên tiến là mở cửa thị trường rộng lớn và đang phát triển của Ấn Độ để đổi lấy việc tiếp cận các chuỗi giá trị toàn cầu do các tập đoàn đa quốc gia (MNC) có trụ sở tại các nền kinh tế tiên tiến này thống trị. FDI từ các MNC toàn cầu này và các nhà cung cấp liên kết của họ tại Ấn Độ sẽ đóng vai trò then chốt đối với năng lực mở rộng sản xuất và xuất khẩu của Ấn Độ. FDI cũng sẽ đóng vai trò trung tâm trong việc chuyển giao công nghệ và kỹ năng. Hiệp định Thương mại Tự do Ấn Độ - EFTA (TEPA) bao gồm cam kết từ các quốc gia thành viên EFTA, dẫn đầu là Thụy Sĩ, về việc đầu tư 100 tỷ USD và tạo ra 1 triệu việc làm tại Ấn Độ trong vòng 15 năm kể từ khi thỏa thuận có hiệu lực. Sáng kiến này của Ấn Độ đang được các nền kinh tế đang phát triển lớn khác xem xét kỹ lưỡng, những nền kinh tế đang tìm cách học hỏi từ sáng kiến này trong các FTA của họ.
FDI phụ thuộc vào mức độ thuận lợi trong kinh doanh (EoDB). Ấn Độ đã ưu tiên EoDB dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Modi kể từ năm 2014 và đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Hơn 39.000 yêu cầu tuân thủ đã được đơn giản hóa và hơn 3.400 quy định pháp lý đã được phi hình sự hóa. Một chương trình toàn diện do Cục Xúc tiến Công nghiệp và Thương mại Nội địa (DPIIT) dẫn đầu, với sự tham gia của cả chính quyền trung ương và tiểu bang, đã được thiết lập để thực hiện các cải cách. Điều này rất quan trọng vì phần lớn các thủ tục thông quan và thủ tục mà nhà đầu tư phải đối mặt đều thuộc thẩm quyền của chính quyền tiểu bang. Những nỗ lực không ngừng này đã nâng thứ hạng của Ấn Độ trong Báo cáo EoDB của Ngân hàng Thế giới từ vị trí 142 năm 2014 lên vị trí 63 năm 2019.
Ấn Độ cũng đang tìm hiểu những đổi mới trong các FTA để kết hợp các quy tắc về tạo thuận lợi đầu tư, mang lại sự đảm bảo hơn cho các nhà đầu tư. Các FTA mới hơn của Ấn Độ hướng đến việc đưa vào các quy tắc về thực hành quản lý tốt (GRP) nhằm thúc đẩy nhanh hơn các cải cách trong nước, tạo cơ hội học hỏi từ các thông lệ tốt nhất của các đối tác thương mại, đồng thời thúc đẩy hợp tác và xây dựng năng lực trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, một lĩnh vực mà Ấn Độ cần tập trung chính sách và cải cách nhiều hơn là các Hiệp định Đầu tư Song phương (BIT). BIT bảo vệ các nhà đầu tư nước ngoài khỏi những thay đổi hoặc điều kiện bất lợi về chính sách. Mô hình BIT hiện tại mà Ấn Độ đang áp dụng thường bị coi là không hiệu quả vì không bao gồm các nguyên tắc đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ, BIT loại trừ các chính sách thuế khỏi BIT, khiến nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt với những thay đổi chính sách thuế đột ngột mà không có bất kỳ sự can thiệp nào trong hiệp định đầu tư. BIT cũng yêu cầu nhà đầu tư phải sử dụng hết tất cả các biện pháp pháp lý trong nước trong một khoảng thời gian nhất định (ví dụ: năm năm) trước khi nhờ đến trọng tài quốc tế. Điều này có thể dẫn đến sự chậm trễ đáng kể và làm nản lòng các nhà đầu tư mong muốn quy trình giải quyết nhanh chóng hơn.
Khi Ấn Độ trở thành nhà đầu tư nước ngoài hướng ngoại, tìm kiếm khả năng tiếp cận các nguyên liệu thô thiết yếu, công nghệ quan trọng và tài sản cơ sở hạ tầng để hỗ trợ tham vọng trở thành một nhân tố quan trọng trong các hành lang thương mại toàn cầu đã được hoạch định như IMEC, các công ty của Ấn Độ cũng sẽ cần được bảo vệ đầu tư. Do đó, BIT của Ấn Độ phải phản ánh thực tế kép này: Đầu tư của Ấn Độ cũng có thể cần được bảo vệ trong một thế giới đặc trưng bởi sự bất ổn chính sách và những lo ngại địa chính trị đang thay đổi, nơi các quốc gia có thể có xu hướng thay đổi chính sách ảnh hưởng đến đầu tư.
Công nghệ
Mặc dù có những tiến bộ nhanh chóng trong các lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật then chốt, cùng một số thành tựu đáng chú ý trong lĩnh vực không gian, quốc phòng, công nghệ sinh học và các lĩnh vực khác, Ấn Độ vẫn chưa thể bắt kịp các nước đồng cấp. Trong một nền kinh tế toàn cầu, nơi năng lực cạnh tranh được xác định bởi khả năng tiếp cận, áp dụng và phát triển công nghệ tiên tiến, Ấn Độ phải triển khai các chiến lược nhằm giảm thiểu các rào cản đối với khả năng tiếp cận và ứng dụng công nghệ. Việc tiếp cận công nghệ là yếu tố then chốt cho sự hội nhập thành công của Ấn Độ và vị thế dẫn đầu trong hai chuyển đổi lớn của nền kinh tế toàn cầu: chuyển đổi xanh sang các nguồn năng lượng bền vững hơn và chuyển đổi số. Hình 5 minh họa vị thế tương đối của Ấn Độ trong số các quốc gia dẫn đầu công nghệ toàn cầu về các công nghệ then chốt. Ấn Độ xếp hạng 9 chung cuộc và tụt hậu đáng kể trong các lĩnh vực như chất bán dẫn và điện toán lượng tử.
Hình 5: Hiệu suất tương đối của Ấn Độ trong các công nghệ chính giữa các công ty công nghệ hàng đầu

Nguồn: Trích từ Chỉ số công nghệ mới nổi và quan trọng, do Trường Harvard Kennedy, Trung tâm Khoa học và Quan hệ Quốc tế Belfer công bố, tháng 6 năm 2025
Việc phủ nhận công nghệ là một khía cạnh cố hữu của căng thẳng địa chính trị. Các nước công nghệ hàng đầu như EU, Mỹ và Nhật Bản ngày càng tìm cách ngăn chặn việc chuyển giao bí quyết công nghệ và phần cứng cho các đối thủ kém tin cậy hơn. Chính sách hạn chế xuất khẩu chip AI hiệu suất cao của Mỹ chỉ sang một số ít quốc gia đáng tin cậy chỉ là một ví dụ về những thách thức mới nổi này. Tòa án độc lập và pháp quyền của Ấn Độ, vốn ngăn chặn hành vi trộm cắp công nghệ và buộc những người vi phạm phải chịu trách nhiệm, tạo nền tảng để Ấn Độ có thể được coi là đối tác đáng tin cậy cho việc chuyển giao công nghệ của các công ty và quốc gia phương Tây. Khi các FTA tăng cường mối liên kết thương mại và đầu tư giữa Ấn Độ và các nền kinh tế công nghiệp hóa, các nhà lãnh đạo công nghệ đa quốc gia phương Tây sẽ có động lực đáng kể để tham gia chuyển giao công nghệ và hợp tác với Ấn Độ. Như Bảng 2 minh họa, Ấn Độ đứng thứ ba trong số các nền kinh tế đang phát triển và mới bắt đầu công nghiệp hóa lớn với tư cách là một thị trường công nghệ và thị trường phát triển nhanh nhất.
Bảng 2: Ấn Độ là thị trường công nghệ: Tầm quan trọng tương đối giữa các nước đang phát triển và các nước đồng cấp NIE

Nguồn: Tính toán sử dụng cơ sở dữ liệu Thương mại dịch vụ theo phương thức cung cấp (TISMOS), WTO
Nguồn lao động tay nghề cao dồi dào của Ấn Độ (xem Hình 2) mang lại một lợi thế quan trọng khác trong việc phát triển và đổi mới công nghệ chung. Ấn Độ đã nổi lên như một trong những quốc gia mua sắm quốc phòng lớn nhất thế giới. Nước này đã tận dụng thành công sức mạnh mua sắm để ủng hộ sản xuất được cấp phép, phát triển sản phẩm chung và hợp tác công nghệ. Những thành công gần đây trong sản xuất và phát triển nội địa được cho là nhờ những cải cách trong quy trình và chiến lược mua sắm với sự tham gia của khu vực tư nhân Ấn Độ.
Công nghệ quân sự có tác động lan tỏa đáng kể đến các ứng dụng thương mại phi quân sự. Tổ hợp công nghiệp quân sự Mỹ là một ví dụ điển hình về phát triển sản phẩm thương mại tiên tiến. Từ kính râm Ray-Ban đến internet, lĩnh vực quốc phòng đã là nguồn gốc của một số sản phẩm thương mại thành công nhất. Một cách tiếp cận chiến lược đối với hoạt động mua sắm quốc phòng của Ấn Độ, khi mở rộng quy mô và phạm vi để tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển giao công nghệ, là rất quan trọng đối với các chính sách thương mại và công nghiệp hóa dài hạn của Ấn Độ. Như Hình 3 minh họa, Ấn Độ là quốc gia chi tiêu quốc phòng lớn thứ tư thế giới, và tốc độ tăng trưởng chi tiêu của nước này chỉ đứng sau Trung Quốc trong số các quốc gia dẫn đầu.
Tuy nhiên, quốc phòng không phải là lĩnh vực duy nhất mà ảnh hưởng của Ấn Độ trong lĩnh vực mua sắm chính phủ đang gia tăng nhanh chóng. Đầu tư và mua sắm của chính phủ Ấn Độ trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, viễn thông, giao thông vận tải, nông nghiệp và y tế nên được tận dụng hiệu quả theo hướng tương tự như quốc phòng.
Bảng 3: Ấn Độ là nước chi tiêu lớn cho quốc phòng

Nguồn: Tính toán sử dụng Cơ sở dữ liệu Chỉ số Phát triển của Ngân hàng Thế giới
Không giống như trong lĩnh vực quốc phòng, hoạt động mua sắm trong các lĩnh vực khác được phân bổ cho nhiều bộ ngành và chính quyền tiểu bang. Điều này làm giảm lợi thế về quy mô. Cần có một quy trình lập kế hoạch chu đáo để hoạt động mua sắm vẫn độc lập nhưng được tiến hành một cách phối hợp nhằm tận dụng lợi thế về quy mô như một động lực thúc đẩy chuyển giao công nghệ và phát triển chung thông qua quan hệ đối tác với khu vực tư nhân Ấn Độ.
Cuối cùng, như sẽ được thảo luận sau trong phần chính sách công nghiệp, Ấn Độ cần tích cực tham gia vào chiến lược thương mại đa phương trong WTO để tìm kiếm sự linh hoạt trong các quy tắc hiện hành của WTO nhằm áp dụng các yêu cầu về hiệu suất liên quan đến đầu tư nhằm tận dụng quy mô thị trường rộng lớn và đang phát triển của Ấn Độ. Các yêu cầu về hiệu suất này có thể bao gồm chuyển giao công nghệ, đào tạo hoặc tìm nguồn cung ứng tại địa phương (tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ cho các công ty trong nước). Ví dụ, một công ty nước ngoài muốn giành được thị phần trong thị trường xử lý nước thải công nghiệp trị giá 10 tỷ đô la Mỹ mỗi năm của Ấn Độ có thể phải tuân thủ các yêu cầu về chuyển giao công nghệ và hàm lượng nội địa để nâng cao năng lực nội địa của Ấn Độ trong lĩnh vực quan trọng này.
Phát triển chuỗi cung ứng linh hoạt
Ấn Độ phụ thuộc đáng kể vào các nhà cung cấp nước ngoài đối với các hàng hóa và nguyên liệu thô thiết yếu, bao gồm cả việc phụ thuộc vào một nguồn nhập khẩu duy nhất. Trong nhiều trường hợp, nguồn nhập khẩu duy nhất này là Trung Quốc, khiến Ấn Độ dễ bị tổn thương trước nguy cơ bị vũ khí hóa chuỗi cung ứng. Hình 6 minh họa các điểm yếu lớn của Ấn Độ. Các FTA bao gồm các quy tắc áp đặt các hạn chế ràng buộc đối với các đối tác, ngăn chặn kiểm soát xuất khẩu; nghĩa là, chúng làm giảm nguy cơ vũ khí hóa sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn chưa sẵn sàng theo đuổi các cam kết sâu rộng liên quan đến kiểm soát xuất khẩu do nhu cầu hạn chế xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực và ổn định giá cả trong nước. Hơn nữa, chiến lược FTA của Ấn Độ loại trừ Trung Quốc khỏi danh sách đối tác, mặc dù sự phụ thuộc vào Trung Quốc là yếu tố chính gây ra phần lớn các điểm yếu trong chuỗi cung ứng của Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ sẽ được hưởng lợi từ việc xem xét lại chiến lược cam kết mềm của mình đối với kiểm soát xuất khẩu với các đối tác thương mại khác, vì những điều khoản như vậy là một cơ chế thiết yếu để giảm thiểu rủi ro cho chuỗi cung ứng. Cũng cần lưu ý rằng các quy tắc của WTO nói chung không cho phép các lệnh cấm và hạn chế xuất khẩu, cho phép các thành viên áp dụng tạm thời để ngăn ngừa hoặc giảm bớt tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng thực phẩm hoặc các sản phẩm thiết yếu khác.
Hình 6: Các ngành chính và sản phẩm liên quan dễ bị tổn thương trong chuỗi cung ứng của Ấn Độ

Nguồn: India Foundation
Tuy nhiên, các quy định của WTO phần lớn không hiệu quả trong việc ngăn chặn các quốc gia thành viên hạn chế xuất khẩu nhiều sản phẩm khác nhau. Ấn Độ cũng đã tham gia các thỏa thuận cụ thể về an ninh chuỗi cung ứng. Các thỏa thuận này bao gồm Thỏa thuận Chuỗi Cung ứng Khung Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF), tập trung vào hợp tác, chia sẻ thông tin và các cơ chế ứng phó khủng hoảng chung nhằm giảm thiểu tác động của sự gián đoạn và nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng. Ấn Độ cũng là một bên ký kết Đối tác An ninh Khoáng sản (MSP). Mục tiêu của MSP là phối hợp các chính sách giữa các thành viên để đảm bảo tiếp cận hiệu quả các khoáng sản quan trọng và hợp tác để giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc nói chung. Ấn Độ cũng đang tìm cách thiết lập các quy tắc trong các FTA với các quốc gia sở hữu trữ lượng đáng kể các nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng, chẳng hạn như khoáng sản quan trọng, điều này sẽ hỗ trợ Ấn Độ đảm bảo tiếp cận các nguồn tài nguyên này. Ví dụ về chiến lược này bao gồm các cuộc thảo luận với Úc và Chile. Các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ nhận thức được tác động của sự gián đoạn tại các điểm nghẽn hậu cần như Kênh đào Suez và Vịnh Aden. Ấn Độ đang tập trung vào việc tạo ra các liên kết đa phương thức thay thế để bổ sung cho các tuyến đường tại các điểm nghẽn đó. Các sáng kiến này bao gồm Hành lang Quốc tế Bắc-Nam (INSTC), nối Ấn Độ với Trung Á, Nga và Châu Âu, cũng như Hành lang Ấn Độ-Trung Đông-Châu Âu (IMEC), cung cấp một tuyến đường kết nối thay thế giữa Ấn Độ Dương và Biển Địa Trung Hải, bỏ qua Kênh đào Suez và Vịnh Aden. Ngoài ra, tuyến đường cao tốc ba bên này còn cung cấp kết nối đường bộ giữa Ấn Độ, Đông Nam Á và Biển Đông. Đáng tiếc là các sáng kiến này đang tiến triển chậm do căng thẳng địa chính trị và các thách thức vận hành khác. Tuy nhiên, chúng vẫn là những mục tiêu thiết yếu cho khả năng phục hồi chuỗi cung ứng dài hạn của Ấn Độ. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, Ấn Độ phải mở rộng năng lực nội địa trong các ngành công nghiệp then chốt thiết yếu cho an ninh quốc gia, an ninh lương thực và an ninh kinh tế. Chính sách công nghiệp nhằm phát triển và nâng cao năng lực nội địa là rất quan trọng đối với mục tiêu này, và phần tiếp theo sẽ thảo luận về một số vấn đề liên quan đến chủ đề này.
Chính sách công nghiệp
Ấn Độ ngày càng bị mắc kẹt giữa việc sử dụng mạnh mẽ các hoạt động phi thị trường do nhà nước dẫn dắt, bất công của nền kinh tế công nghiệp lớn nhất thế giới - Trung Quốc - và các chính sách công nghiệp được tài trợ tốt của các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến. Các tác nhân này đang cố gắng loại bỏ cạnh tranh trong các lĩnh vực then chốt sẽ định hình tương lai của nền kinh tế toàn cầu. Thị phần chung của Ấn Độ trong ngành sản xuất toàn cầu chỉ chiếm 2,9%, và trong xuất khẩu sản xuất toàn cầu, ở mức 2,2%. Thị phần của Ấn Độ trong các lĩnh vực công nghệ cao chỉ là 2,7%. Ấn Độ phải thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp và khả năng cạnh tranh trong các lĩnh vực quan trọng này để bắt kịp các đối thủ thống trị. Vì nhiều chính sách trong số này có khả năng xung đột với các quy tắc của WTO, ví dụ như các yêu cầu về hiệu suất đối với đầu tư nước ngoài để hỗ trợ chuyển giao công nghệ đã đề cập trước đó, hoặc trợ cấp đầu vào hoặc tín dụng cho công nghiệp tư nhân, Ấn Độ sẽ cần tìm kiếm sự linh hoạt tạm thời từ các quy tắc đó, có viện dẫn nhu cầu phát triển của mình.
Ấn Độ cũng phải tìm cách siết chặt và hạn chế các hành vi chính sách công nghiệp bất công làm gia tăng bất bình đẳng phát triển toàn cầu và tạo ra mất cân bằng toàn cầu. Điều này đòi hỏi phải chống lại các hành vi phi thị trường bất công của Trung Quốc và tìm cách hạn chế các chính sách công nghiệp quá mức và hung hăng tại các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến. Để đạt được những điều trên, cần phải độc lập theo đuổi từng mục tiêu trong ba mục tiêu trên các nền tảng khác nhau với các nhóm đồng minh khác nhau:
1. Theo đuổi sự linh hoạt trong các quy tắc toàn cầu để tạo không gian chính sách cho chính sách công nghiệp của Ấn Độ: Ấn Độ phải liên minh với các nước đang phát triển lớn ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, những nước có lợi ích tương đồng. Nhóm các quốc gia châu Phi đã đệ trình các đề xuất tìm kiếm các giải pháp tương tự lên WTO. Với Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 14 sắp tới, Ấn Độ sẽ được hưởng lợi từ việc đưa ra lập trường phân biệt các mục tiêu phát triển chính đáng của chính sách công nghiệp ở hầu hết các nước đang phát triển với các chính sách công nghiệp mang tính săn mồi và trọng thương thường thấy ở các nền kinh tế phi thị trường như Trung Quốc.
2. Theo đuổi cải cách các quy tắc của WTO nhằm kiểm soát các chính sách thương mại và công nghiệp bất công trong các nền kinh tế phi thị trường và buộc họ phải chịu trách nhiệm: Lợi ích của Ấn Độ về cơ bản phù hợp với lợi ích của Mỹ, EU và Nhật Bản trong mục tiêu này. Ấn Độ sẽ được hưởng lợi nếu hợp tác với các nền kinh tế phát triển này và tìm cách đưa càng nhiều quốc gia đang phát triển, vốn cũng đang phải chịu đựng những hành vi bất công như vậy, vào một liên minh. Trên thực tế, Mỹ, EU và Nhật Bản có thể sẵn sàng đồng ý cho phép các nước đang phát triển theo định hướng thị trường theo đuổi các mục tiêu phát triển hợp pháp với quyền tự do lớn hơn nhiều trong việc sử dụng trợ cấp và hỗ trợ nhà nước để đổi lấy sự hỗ trợ trong việc phát triển các quy tắc quốc tế nhằm buộc các nền kinh tế phi thị trường phải chịu trách nhiệm về chính sách của họ.
3. Đảm bảo rằng các nền kinh tế phát triển phải chịu trách nhiệm về các chính sách bóp méo thương mại của họ: Ấn Độ phải xác định các thông số phát triển (thu nhập bình quân đầu người, số lượng người nghèo tuyệt đối), cùng với mức độ năng lực kinh tế toàn cầu ngăn cản các quốc gia vốn đã thịnh vượng, có các ngành công nghiệp thống trị, sử dụng trợ cấp và hỗ trợ của nhà nước làm suy yếu cạnh tranh và dẫn đến sự thống trị các ngành công nghiệp của các tập đoàn độc quyền toàn cầu.
Kết luận
Mục tiêu Viksit Bharat của Ấn Độ sẽ cần phải đạt được trong những hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với những gì các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc đang phải đối mặt trong quá trình chuyển đổi. Thế giới đang trải qua làn sóng phản đối toàn cầu hóa và thị trường mở, căng thẳng địa chính trị đang làm gián đoạn chuỗi cung ứng, và khả năng tiếp cận các công nghệ then chốt đang ngày càng bị hạn chế vì những lý do địa chiến lược. Thị trường tương đối mở và xu hướng toàn cầu hóa đã phát triển từ thế kỷ 20 sang thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 giờ đây đang bị đảo ngược.
Hơn nữa, những cú sốc công nghệ bắt nguồn từ những tiến bộ như tự động hóa và AI đã làm giảm đáng kể việc tạo ra việc làm mới gắn liền với tăng trưởng kinh tế, khiến việc thay thế lao động bằng máy móc ngày càng dễ dàng và rẻ hơn. Việc thu hẹp không gian cho các hoạt động kinh tế "thâm dụng lao động" này đặt ra một thách thức đáng kể cho Ấn Độ, quốc gia phải đảm bảo sự tham gia hiệu quả cho dân số trong độ tuổi lao động lớn nhất thế giới. Cộng thêm vào tất cả sự phức tạp này là thách thức về mất cân bằng trong nền kinh tế toàn cầu do một nền kinh tế phi thị trường khổng lồ không tuân thủ các quy tắc thương mại quốc tế và đã lợi dụng cả khả năng tiếp cận thị trường lẫn sự thống trị tuyệt đối của mình trong chuỗi cung ứng để chống lại các đối thủ cạnh tranh.
Việc tìm kiếm các giải pháp toàn diện giúp Ấn Độ đạt được các mục tiêu phát triển bằng cách tiếp cận thị trường toàn cầu về hàng hóa, dịch vụ và nguồn nhân lực sẽ đòi hỏi một cách tiếp cận tập trung, bao gồm hội nhập song phương sâu rộng hơn với các nền kinh tế và khu vực lớn thông qua các FTA. Các FTA như vậy phải được bổ sung bằng các sáng kiến phù hợp thu hút đầu tư nước ngoài và đảm bảo khả năng tiếp cận các công nghệ then chốt. Ấn Độ phải hình thành các liên minh hiệu quả để giải quyết thách thức về tính dễ bị tổn thương của chuỗi cung ứng và việc vũ khí hóa sự phụ thuộc quá mức vào một đối tác thương mại duy nhất. Tất cả những điều này đòi hỏi sự nhanh nhạy. Ấn Độ thường tự thấy họ liên minh với các quốc gia trong các phe phái địa chính trị đối lập trong khi theo đuổi các ưu tiên trong các lĩnh vực đề cập ở trên. Việc cân bằng những phức tạp như vậy sẽ đòi hỏi sự khéo léo và theo đuổi không ngừng nghỉ các lợi ích của Ấn Độ. Quan trọng hơn, điều này đòi hỏi sự nhất quán và tính liên tục trong các chính sách của Ấn Độ trong giai đoạn kéo dài này.
Tài liệu tham khảo
1. Autor, David (2019) Work of the Past, Work of the Future, Working Paper No. 25588, National Bureau of Economic Research (NBER)
2. Autor, David H., David Dorn, and Gordon H. Hanson. 2013. “The China Syndrome: Local Labor Market Effects of Import Competition in the United States.” American Economic Review 103 (6): 2121–68.
3. Acemoglu, D., Restrepo, P., 2020. Robots and jobs: Evidence from US labour markets. Journal of Political Economy 128, 2188-2244.
4. Artuc, E, Christiaensen, L, Winkler, H. (2019) Does automation in rich countries hurt developing ones? Evidence from the us and Mexico. Evidence from the US And Mexico (February 14, 2019). World Bank Policy Research Working Paper No. 8741
5. Bai, Liang and Sebastian Stumpner. 2019, “Estimating US Consumer Gains from Chinese Imports.” American Economic Review: Insights, 1 (2): 209–24
6. Banerjee, P, Hussain, Z, and Karwal, K. (2025a) Navigating the Development Divide: The Case for Policy Space in India’s Industrial Policy Strategy Amid Rising Global Protectionism, Centre for Research in International Trade (CRIT) Working Paper No. 85
7. Banerjee, P, Vartul, Mandal, S, and Dua, D. (2025b) Negotiating for Digitally Delivered Services- Framework for a Comprehensive Approach, Centre for Research in International Trade (CRIT) Working Paper No. 82
8. Boullenois, C, and Jordan, J.A. (2024) How China’s Overcapacity Holds Back Emerging Economies’, Rhodium Group, June
9. Caliendo et al. (2019) ‘Trade and Labor Market Dynamics: General Equilibrium Analysis of the China Trade Shock’, Econometrica, 87(3),
10. Guintella, O, Yi, L, and Wang, T (2022) How Do Workers and Households Adjust to Robots? Evidence from China, Working Paper No. 30707, National Bureau of Economic Research (NBER)
11. Jaravel, X and E Sager (2019), ‘What are the Price Effects of Trade? Evidence from the U.S. and Implications for Quantitative Trade Models’, CEPR Discussion Paper No. 13902 and
12. Laget, E, Rocha, N, and Varela, G. (2021) Deep Trade Agreement and Foreign Direct Investments, World Bank Policy Research Paper No. 9829
Tác giả: Tiến sĩ Pritam Banerjee - Giáo sư & Trưởng Trung tâm Nghiên cứu WTO, Viện Nghiên cứu Ngoại thương Ấn Độ, New Delhi.
Nguồn: India Foundation
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục



Sri Lanka bảo vệ di sản văn hóa Phật giáo
Tư liệu Nghiên cứu Ấn Độ 12:22 22-08-2025

Ấn Độ khởi động lại đàm phán FTA với EAEU
Tư liệu Nghiên cứu Ấn Độ 04:00 21-08-2025