Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Cường quốc đang lên Ấn Độ: Một góc nhìn khác

Cường quốc đang lên Ấn Độ: Một góc nhìn khác

Câu chuyện về Ấn Độ như một cường quốc đang trỗi dậy phần lớn được định hình bởi việc Mỹ coi Ấn Độ là đối trọng với Trung Quốc.

04:00 02-04-2025 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Việc khẳng định lặp đi lặp lại rằng, Ấn Độ đang trên đường trở thành một cường quốc đã trở nên quá quen thuộc. Truyền thông tràn ngập những câu chuyện ca ngợi về ảnh hưởng và vị thế ngày càng tăng của Ấn Độ trên thế giới. Phần lớn các nhà hoạch định chính sách, học giả và chuyên gia phân tích trên toàn cầu đều dùng thuật ngữ “cường quốc đang lên” để mô tả Ấn Độ. Quan điểm này kéo theo nhiều hệ lụy chính sách, nhất là trong bối cảnh thế giới đang chờ đón những dịch chuyển lớn trong cán cân quyền lực trong các thập niên tới.

Mặc dù tăng trưởng kinh tế và quân sự của Ấn Độ trong ba thập niên qua là không thể phủ nhận, nhưng khó có thể khẳng định nước này đang tăng tốc đủ nhanh để sánh ngang với các đại cường. Chẳng hạn, giữa giai đoạn 2009–2019, tổng sản phẩm quốc nội của Ấn Độ chỉ tăng từ 9% lên 13% so với GDP của Mỹ. Trong cùng kỳ, khoảng cách kinh tế giữa Ấn Độ và Trung Quốc còn nới rộng: tỉ lệ GDP của Ấn Độ so với Trung Quốc giảm từ 26% xuống 20%. Điều này không có gì ngạc nhiên, bởi kể từ cải cách kinh tế năm 1991, Ấn Độ chỉ đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,2% mỗi năm, trong khi Trung Quốc duy trì mức 9% kể từ năm 1978.

Giống như mọi câu chuyện địa chính trị khác, tuyên ngôn về một “cường quốc đang lên” luôn chịu ảnh hưởng từ những lợi ích tư tưởng và thực tiễn của bên phát ngôn. Câu chuyện này không phải do New Delhi đơn độc xây dựng; cần xem xét cả cách Mỹ tiếp nhận và cổ vũ quan điểm ấy.

Về địa chiến lược, Ấn Độ vốn là một quốc gia có vị thế nổi bật nhờ địa lý và dân số khổng lồ. Quân đội của nước này có quy mô lớn – ít nhất xét về số lượng binh sĩ, dù chất lượng trang thiết bị quốc phòng còn nhiều hạn chế. Năm 1974, Ấn Độ đạt được năng lực hạt nhân. Kể từ thập niên 1970, nước này đã nằm trong nhóm 15 nền kinh tế hàng đầu thế giới.

Sau Chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, Nam Á bị đẩy ra rìa địa chính trị toàn cầu, khiến tầm quan trọng của Ấn Độ trong tư duy của Mỹ chạm đáy vào thập niên 1990. Chính quyền Tổng thống Bill Clinton chủ yếu tập trung chính sách Nam Á vào kiểm soát phổ biến hạt nhân và căng thẳng Ấn Độ–Pakistan.

Bước ngoặt diễn ra dưới thời Tổng thống George W. Bush. Họ muốn điều chỉnh chính sách của Washington đối với Ấn Độ vì hai lý do: Trung Quốc và niềm tin vào giá trị dân chủ. Do đó, chiến lược lớn của Mỹ phải nhằm ngăn chặn sự trỗi dậy của bất kỳ đối thủ đại cường nào. Với kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, Trung Quốc sớm trở thành mối lo ngại chính của giới tân bảo thủ từ cuối thập niên 1990. Trong khi chính quyền Clinton tìm cách thân thiện với Bắc Kinh với hy vọng tự do hóa kinh tế sẽ kéo theo cải cách chính trị, giới tân bảo thủ cho rằng cuộc cạnh tranh kiểm soát hệ thống quốc tế giữa Mỹ và Trung Quốc là điều không thể tránh khỏi. Những ý tưởng này thấm vào đội ngũ hoạch định chính sách dưới thời Bush. Họ tiếp cận Ấn Độ với logic hai chiều: bởi vì Ấn Độ là “cường quốc đang lên”, nên cần được đặt làm đối trọng với Trung Quốc; đồng thời Washington cũng cần một đối trọng như vậy để cân bằng sức mạnh khu vực. Việc tích cực ủng hộ Ấn Độ phù hợp với lợi ích chiến lược và tư tưởng của Mỹ, đồng thời cũng là cách dễ dàng để ghi điểm với một New Delhi khao khát địa vị.

Thật đáng chú ý là chính sách mới này được thúc đẩy mạnh mẽ ở Washington khi sự trỗi dậy của Ấn Độ dường như đang gặp trở ngại. Cuộc chiến Kargil năm 1999 và căng thẳng 2001–2002 với Pakistan cho thấy New Delhi còn vướng vào cuộc đối đầu song phương khu vực, khó có thể đóng vai trò toàn cầu. Thêm vào đó, tăng trưởng kinh tế Ấn Độ giai đoạn 1997–2003 giảm xuống 5,2% mỗi năm, so với 6,75% trong năm năm trước đó. Lập luận về một Ấn Độ đang lên không còn thuyết phục như trước.

Tuy nhiên, chính quyền Bush vẫn kiên trì theo đuổi chính sách mới, với thỏa thuận hạt nhân Ấn–Mỹ năm 2005 là trọng tâm. Dù thường được cho là do phía Ấn Độ đề xuất trước, ý tưởng này đã xuất hiện trong giới tân bảo thủ từ lâu. Cato Institute từng đề xuất nhiều phương án để Washington công nhận “vị thế cường quốc thế giới của Ấn Độ”, trong đó cấp tiến nhất là “chấp nhận không điều kiện vị thế hạt nhân của Ấn Độ”.

Chính quyền Bush còn vận động tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và Nhóm Các nước Cung cấp Hạt nhân (NSG) thừa nhận Ấn Độ là một quốc gia hạt nhân, tương đương với việc công nhận đa phương vị thế đang lên của nước này. Năm 2006, sau khi thỏa thuận hạt nhân được thông qua, chính quyền Mỹ tự hào tuyên bố “Ấn Độ giờ đây đã sẵn sàng gánh vác các nghĩa vụ toàn cầu cùng hợp tác với Mỹ như một cường quốc thực thụ”.

Sự nhiệt tình ủng hộ Ấn Độ từ phía Mỹ trở nên lan tỏa. Năm 2004, tạp chí Foreign Policy và New York Times dự báo tăng trưởng kinh tế Ấn Độ có thể vượt Trung Quốc. Cây bút Thomas Friedman còn gợi ý rằng Ấn Độ nên thay thế Pháp trong ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Trong khi đó, tại Ấn Độ, chính phủ do Đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP) lãnh đạo cũng tự nhận mình là cường quốc đang trỗi dậy. “Nếu hỏi tôi thành tựu lớn nhất trong năm năm qua, tôi sẽ nói rằng hôm nay mỗi người Ấn đều cảm thấy mình có thể ngẩng cao đầu hơn trước”, Phó Thủ tướng L.K. Advani tuyên bố tại Quốc hội. Trong cuộc bầu cử 2004, BJP ra chiến dịch “Ấn Độ tỏa sáng” nhằm thuyết phục cử tri về thịnh vượng kinh tế và uy tín toàn cầu đang tăng của đất nước.

Đối lập chính trị chỉ ra nghịch lý cơ bản của tham vọng cường quốc: dù có kinh tế tăng trưởng và quân đội hùng mạnh, phần lớn người dân Ấn Độ vẫn ở trong trạng thái nghèo đói, thất nghiệp gia tăng, thâm hụt ngân sách lớn, GDP bình quân đầu người thấp, chỉ số phát triển con người kém. Những thách thức nội tại đó – và đến nay vẫn còn đó – là yếu tố phản biện mạnh mẽ cho câu chuyện “cường quốc đang lên”.

BJP thất bại trong cuộc bầu cử năm 2004, nhưng kể chuyện về một Ấn Độ đang lên vẫn được tiếp nối. Kinh tế Ấn Độ tăng trên 8% giai đoạn 2003–04 đến 2010–11 trước khi chững lại. Liên minh Đảng Quốc đại lên nắm quyền tiếp tục đẩy mạnh quảng bá “Thương hiệu Ấn Độ”. Năm 2006, Thủ tướng Manmohan Singh gọi Ấn Độ là “siêu cường toàn cầu tiếp theo”.

Đáng chú ý, kể chuyện của New Delhi khác với phiên bản Washington ở ba điểm chính. Thứ nhất, không liên kết với Trung Quốc – Ấn Độ không xem mình là đối thủ của Bắc Kinh. Thứ hai, tập trung vào tăng trưởng kinh tế thay vì quân sự hay ảnh hưởng ngoại giao. Cuối cùng, Ấn Độ hầu như không mặn mà dùng vị thế “cường quốc đang lên” để nhảy vào quản trị trật tự quốc tế, chỉ trừ việc kiên trì vận động ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Trong những năm gần đây, khoảng cách giữa phiên bản Mỹ và Ấn Độ về câu chuyện Ấn Độ trổi dậy đã hẹp lại vì nhiều yếu tố. Chính phủ cả BJP lẫn Quốc đại đều sẵn sàng tận dụng sự cổ vũ từ Mỹ cho mục đích chính trị, ngoại giao và kinh tế.

Sự nhiệt tình của Mỹ thập niên đầu thế kỷ 21, giúp định hình câu chuyện cường quốc đang lên, để lại di sản lâu dài. Vai trò của Ấn Độ hôm nay luôn gắn với vị thế đối trọng Trung Quốc trong diễn ngôn ngoại giao. Các bình luận gia Mỹ vẫn chỉ trích Ấn Độ vì không hành động đủ quyết liệt chống Trung Quốc hoặc chưa đủ gần gũi với Mỹ.

Giả thuyết trung tâm của giới chủ nghĩa tân bảo thủ Mỹ – rằng sự trỗi dậy của Ấn Độ tất yếu dẫn đến đối đầu với Trung Quốc – vẫn có sức nặng ở Washington. Dù quan hệ Ấn–Trung còn nhiều vấn đề nan giải, song đối đầu vĩnh viễn không phải là điều tất yếu như câu chuyện vẫn thường khẳng định.

Cuối cùng, sự ủng hộ từ Mỹ có giá trị với Ấn Độ: danh tiếng cường quốc đang lên của New Delhi sẽ khó có trọng lượng nếu thiếu sự hậu thuẫn từ Washington. Nhưng cần nhìn nhận rõ rằng kể chuyện về sự trỗi dậy của Ấn Độ cũng phản ánh những lợi ích tư tưởng, địa chính trị hoặc thương mại của Mỹ. Câu chuyện thay đổi khi ưu tiên của Mỹ biến động. Giờ đây khi chính sách ngoại giao dưới thời Donald Trump trở nên thất thường và ích kỷ, niềm tin coi Ấn Độ là “cường quốc đang lên” nhiều khả năng sẽ chịu ảnh hưởng theo những cách khó lường.

Viết bình luận

Bình luận

Cùng chuyên mục