Giải thích: Mối quan hệ Ấn Độ-Israel
Quan hệ ngoại giao giữa hai nước vừa tròn 30 năm. Nhìn lại mối quan hệ đã phát triển như thế nào, với việc Ấn Độ đã "đi dây" trong quan hệ giữa với Israel và Palestine.
Vào ngày 30 tháng 1, Ấn Độ và Israel đã đánh dấu 30 năm quan hệ ngoại giao đầy đủ. Israel mở đại sứ quán tại Delhi vào ngày 1 tháng 2 năm 1992. Đại sứ quán Ấn Độ tại Tel Aviv khai trương vào ngày 15 tháng 5 cùng năm. Dịp kỷ niệm diễn ra vào thời điểm mối quan hệ đang phát triển bền vững trở thành tiêu điểm vì vụ Pegasus, phần mềm giám sát do công ty NSO của Israel sản xuất. Công ty cho biết họ chỉ bán giấy phép để sử dụng cho các chính phủ và chỉ sau khi được Cơ quan Kiểm soát Xuất khẩu quốc phòng của chính phủ Israel phê duyệt.
Tờ New York Times hồi đầu tuần đã đưa tin rằng, Pegasus và hệ thống tên lửa là "hạt nhân" của gói vũ khí và thiết bị tình báo phức tạp mà Ấn Độ đã mua trong chuyến thăm năm 2017 của Thủ tướng Narendra Modi tới Israel.
Nếu báo cáo của tờ New York Times chỉ ra một thỏa thuận bí mật đối với công nghệ giám sát sẽ được sử dụng chống lại công dân Ấn Độ phủ bóng đen lên ngày kỷ niệm, thì cả Thủ tướng Naftali Bennett, người kế nhiệm Benjamin Netanyahu năm ngoái, cũng như Thủ tướng Modi đều không cho phép thông tin đó phá hoại dịp kỷ niệm 30/1 chúc mừng của cả hai bên.
Ông Bennett đã phát biểu với “tất cả người dân Ấn Độ” về “30 năm quan hệ đối tác tuyệt vời, kết nối văn hóa sâu sắc và hợp tác kinh tế và quân sự”, đồng thời mô tả cơ hội hợp tác giữa hai nước là "vô cùng". Ông Modi đã nói về việc đặt ra các mục tiêu mới để đưa mối quan hệ tiến lên, và đề cập đến các cộng đồng Do Thái ở Ấn Độ, những người đã sống ở đây mà không bị phân biệt đối xử trong nhiều thế kỷ.
Bí mật thầm kín
Chuyến thăm nổi tiếng của ông Modi vào năm 2017 là chuyến thăm đầu tiên của một Thủ tướng Ấn Độ, và cùng với đó, ông nắm toàn bộ mối quan hệ hầu như đã phát triển âm thầm trong hơn một phần tư thế kỷ.
Ấn Độ đã công nhận Israel từ năm 1950 nhưng quá trình bình thường hóa diễn ra trong 4 thập kỷ nữa.Sau Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, cục diện ở Tây Á đã trải qua những thay đổi lớn. Sự ủng hộ của người Ả Rập đối với chính nghĩa của người Palestine bắt đầu suy yếu do Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) hậu thuẫn cho cuộc xâm lược Kuwait của Iraq. Sau đó là sự tan rã của Liên Xô, vốn là quốc gia đầu tiên của Ấn Độ cho khí tài quân sự.
Bắt đầu từ năm 1992, trong khi có các thỏa thuận quốc phòng và hợp tác trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và nông nghiệp, Ấn Độ vẫn giữ âm thầm mối quan hệ với Israel vì cân bằng mối quan hệ này với sự ủng hộ lịch sử đối với sự nghiệp của người Palestine, sự phụ thuộc của nước này vào thế giới Ả Rập về dầu mỏ, và tình cảm ủng hộ Palestine của các công dân Hồi giáo trong nước.
Nhưng các chuyến thăm cấp cao đầu tiên chỉ diễn ra khi NDA-1 dưới thời Thủ tướng Atal Bihari Vajpayee cầm quyền. Năm 2000, L K Advani trở thành bộ trưởng Ấn Độ đầu tiên đến thăm Israel. Cùng năm, Jaswant Singh đến thăm với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao. Năm đó, hai nước đã thành lập Ủy ban chống khủng bố chung. Và năm 2003, Ariel Sharon trở thành Thủ tướng Israel đầu tiên đến thăm Ấn Độ.
Không giống như những người tiền nhiệm, ông Modi đã nỗ lực để thu hút Israel, thể hiện tình cảm tự nhiên của Hindutva đối với Israel như một quốc gia mạnh mẽ, không nhân nhượng đối với kẻ thù "khủng bố" của mình. Với Hiệp định Abraham (Abrahamic Accords) năm 2020 chứng kiến UAE, Bahrain, Sudan và Morocco bình thường hóa quan hệ với Israel và mối quan hệ mới được củng cố của chính Ấn Độ với UAE và Saudi Arabia New Delhi giờ đây tự tin hơn về các mối quan hệ chủ chốt của mình ở Tây Á hơn bất kỳ thời điểm nào khác.
Ấn Độ và sự nghiệp người Palestine
Tuy vòng tay Ấn Độ-Israel đã làm xói mòn những gì từng là sự ủng hộ rõ ràng của New Delhi đối với sự nghiệp của người Palestine, thì Ấn Độ vẫn tiếp tục "đi dây" trong việc thắt chặt giữa mối quan hệ lịch sử với Palestine và tình yêu mới hình thành dành cho Israel.
Năm ngoái, một dấu hiệu cho thấy điều này đã xuất hiện trong tuyên bố của Ấn Độ tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về bạo lực Israel-Palestine. Tuyên bố gần như quy trách nhiệm cho Israel về bạo lực và bày tỏ sự ủng hộ “mạnh mẽ” của Ấn Độ đối với “sự nghiệp của người Palestine” và sự ủng hộ “kiên định” đối với giải pháp hai nhà nước.
Trước đó, mối quan hệ với Palestine gần như là niềm tin vào chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong hơn 4 thập kỷ. Ấn Độ ủng hộ quyền tự quyết của người Palestine và tập hợp lại sau Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) và nhà lãnh đạo của tổ chức này Yasser Arafat với tư cách là đại diện duy nhất của người dân Palestine.
Năm 1975, Ấn Độ mời PLO mở văn phòng tại Delhi, trao quy chế ngoại giao cho nước này 5 năm sau đó. Năm 1988, khi PLO tuyên bố một quốc gia độc lập của Palestine với thủ đô ở Đông Jerusalem, Ấn Độ đã công nhận ngay lập tức. Arafat đã được tiếp đón với tư cách là nguyên thủ quốc gia bất cứ khi nào ông đến thăm Ấn Độ.
Và ngay cả khi Ấn Độ mở cơ quan đại diện ngoại giao ở Tel Aviv, nước này đã thành lập Văn phòng đại diện ở Gaza, sau đó chuyển đến Ramallah khi phong trào Palestine chia rẽ giữa Hamas (đã giành được quyền kiểm soát Gaza) và PLO.
Trong thời gian 10 năm cầm quyền của UPA, Mahmoud Abbas, người đứng đầu Chính quyền Palestine quản lý Bờ Tây, đã đến thăm bốn lầnẤn Độ - vào các năm 2005, 2008, 2010 và 2012.
Ấn Độ đã bỏ phiếu để Palestine trở thành thành viên đầy đủ của UNESCO vào năm 2011, và một năm sau, nước này đồng bảo trợ nghị quyết của Đại hội đồng LHQ cho phép Palestine trở thành quốc gia quan sát viên “không phải là thành viên” tại LHQ mà không có quyền biểu quyết.
Ấn Độ cũng ủng hộ việc cắm cờ Palestine trong khuôn viên Liên Hợp Quốc vào tháng 9/2015, một năm sau khi ông Modi được bầu lên nắm quyền.
Sự chuyển biến về chính sách
Sự thay đổi lớn đầu tiên trong chính sách của Ấn Độ đến từ chuyến thăm của Mahmoud Abbas vào năm 2017 khi Ấn Độ trong một tuyên bố từ bỏ quan điểm ủng hộ Đông Jerusalem là thủ đô của nhà nước Palestine. Khi ông Modi đến thăm Israel, hành trình của ông không bao gồm Ramallah, như thông lệ của các chính khách đến thăm khác.
Nhưng hành động cân bằng vẫn tiếp tục. Modi đã thực hiện một chuyến thăm riêng đến Ramallah vào tháng 2 năm 2018, và kêu gọi một nhà nước Palestine độc lập. Ngay cả khi đã bỏ phiếu trắng tại UNESCO vào tháng 12 năm 2017, Ấn Độ đã bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết tại Đại hội đồng phản đối việc chính quyền Trump công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel. Tại phiên họp thứ 46 của UNHRC ở Geneva vào đầu năm 2021, Ấn Độ đã bỏ phiếu chống lại Israel trong ba nghị quyết - về quyền tự quyết của người dân Palestine; về chính sách định cư của Israel; và về tình hình nhân quyền ở Cao nguyên Golan. Nước này đã bỏ phiếu trắng lần thứ tư, trong đó yêu cầu một báo cáo của UNHRC về tình hình nhân quyền ở Palestine, bao gồm cả Đông Jerusalem.
Vào tháng 2 năm 2021, Tòa án Hình sự Quốc tế tuyên bố có thẩm quyền điều tra các vụ vi phạm nhân quyền trên lãnh thổ Palestine bao gồm Bờ Tây và Gaza, đồng thời chỉ đích danh cả lực lượng an ninh Israel và Hamas là thủ phạm. Sau đó, Thủ tướng Netanyahu hy vọng Ấn Độ, quốc gia không công nhận ICC, có quan điểm chống lại, và rất ngạc nhiên khi điều đó không xảy ra.
Tuyên bố của Ấn Độ tại UNSC là một sự thất vọng khác đối với Israel. Nhưng nó không ảnh hưởng đến mối quan hệ vì cả hai nước đều cân nhắc lợi ích lâu dài của mình so với địa chính trị đang thay đổi nhanh chóng của Tây Á. Cả hai đều hy vọng rằng sự kiện Pegasus sẽ kết thúc tương tự mà không có bất kỳ tác động lớn nào đến mối quan hệ song phương.
Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ
Nguồn: https://indianexpress.com/article/explained/the-india-israel-relationship-modi-bennett-7753938/
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục