Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Hindutva, Patel và Lịch sử dân tộc chủ nghĩa của Ấn Độ

Hindutva, Patel và Lịch sử dân tộc chủ nghĩa của Ấn Độ

12:49 01-09-2024 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Chủ nghĩa dân tộc Hindu phần nào dựa trên cách diễn giải lại lịch sử của Ấn Độ, trong đó nhà nhà nước Ấn Độ hậu thuộc địa được trình bày như sự biểu hiện của một nền văn minh vĩnh cửu lấy Hindu làm trung tâm. Cách trình bày lịch sử này có mối quan hệ phức tạp với những ký ức về cuộc đấu tranh giành độc lập. Những ký ức đó là nền tảng cho các dòng chảy lịch sử trong chính trị Ấn Độ, vì chúng đã tạo ra và từ đó định hình bản sắc độc lập, hậu thuộc địa của Ấn Độ. Vì Đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP) được thành lập sau khi Ấn Độ giành được độc lập, nên đảng này buộc phải xây dựng một câu chuyện thay thế về lịch sử Ấn Độ để phục vụ cho lợi ích của chính mình.

Các tài liệu chính thống về các phong trào giành độc lập của Ấn Độ thường nhấn mạnh vai trò của Đảng Quốc Đại Ấn Độ (INC) và phong trào kháng chiến bất bạo động, hơn là vai trò của những người kêu gọi kháng chiến vũ trang (như Subhas Chandra Bose) hoặc Những người theo chủ nghĩa dân tộc theo phong cách Hindutva (như tổ chức RSS và Vinayak Damodar Savarkar).

Ngược lại, câu chuyện về sự độc lập của Ấn Độ do BJP xây dựng đòi hỏi phải tái hình dung lại lịch sử dân tộc chủ nghĩa của Ấn Độ, trong đó chỉ nhấn mạnh các nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa có thể được gắn liền với quan điểm của đạo Hindu về Ấn Độ. Câu chuyện của họ hướng sự chú ý khỏi các nhà lãnh đạo thế tục như Nehru, hoặc các nhà tư tưởng liên tôn, bất bạo động như Gandhi. Việc xóa bỏ ảnh hưởng quá lớn của Nehru (Đại diện đảng Quốc đại, đối lập với đảng BJP đang cầm quyền hiện nay) đòi hỏi phải thiết lập các nhân vật lịch sử khác thay thế ông, những nhân vật đã thấm nhuần các đặc điểm chính trị khiến họ có vẻ đồng cảm với Modi và đảng BJP. Việc thay đổi ký ức của Patel và Gandhi đã chứng minh là rất hữu ích trong nỗ lực này.

Mối quan hệ của BJP với lịch sử Ấn Độ đã được khám phá trong các bối cảnh khác. Ví dụ, Lars Tore Flaten đã xem xét ảnh hưởng của BJP đối với các câu chuyện lịch sử của Ấn Độ được trình bày trong sách giáo khoa lịch sử ở trường. Những cuốn sách giáo khoa này lập luận cho sự thống nhất lâu dài của quốc gia Ấn Độ bằng cách tập trung vào lịch sử Hindu, đồng thời thấm nhuần câu chuyện về "sự thống nhất" này với chiều sâu lịch sử nhiều nhất có thể. Chúng mô tả cuộc đấu tranh giành tự do như một quá trình thức tỉnh văn hóa và giảm bớt vai trò của Nehru trong đó. Như Flaten lập luận, mặc dù BJP có thể không nỗ lực nhiều trong việc viết lại sách giáo khoa trường học như các chính quyền BJP trước đây, nhưng họ đã giúp biên soạn sách giáo khoa ở Rajasthan mà không hề đề cập đến vai trò của Nehru trong cuộc đấu tranh giành tự do. Thay vào đó, sách giáo khoa Rajasthan đề cập đến Gandhi, Bose và Savarkar, những người đã xây dựng ý tưởng về Hindutva, tập trung vào Tổng thống đầu tiên của Ấn Độ, Rajendra Prasad — một thành viên cánh hữu của Đảng Quốc Đại Ấn Độ (INC) — và cũng cung cấp một phân tích về đóng góp của Sardar Patel cho sự nghiệp này.

Thay vì chỉnh sửa sách giáo khoa, Modi đã chọn những cách ấn tượng hơn và dễ tiếp cận hơn để truyền tải thông điệp dân tộc chủ nghĩa của ông, như Tượng Thống nhất (Statue of Unity). Bằng cách hiện thực hóa tầm nhìn của ông về lịch sử chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ qua dự án Tượng Thống nhất, Modi đang thúc đẩy việc tái hình dung Ấn Độ thông qua tưởng niệm chính trị một cách trực tiếp hơn. Trong quá trình đó, ông đã chọn tôn vinh Patel hơn là Rajendra Prasad.

Mặc dù trọng tâm ở đây là sự tái hiện quá khứ thông qua việc hiện thực hóa tưởng niệm, để hiểu cách BJP đã chiếm dụng Patel và tại sao sự chiếm dụng này lại quan trọng với Modi, chúng ta cần hiểu sơ qua về cuộc đời và hệ tư tưởng của Patel. Vallabhbhai Jhaverbhai “Sardar” Patel sinh ra ở vùng nông thôn Gujarat và, giống như Nehru và Gandhi, ông đã được đào tạo thành luật sư ở Anh.

Ông gặp Gandhi, một người Gujarati, tại Câu lạc bộ Gujarat ở Ahmedabad. Thông qua mối quan hệ với Gandhi, ông đã tham gia sâu rộng vào phong trào đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ. Ông đã tổ chức các phong trào phản kháng bất bạo động ở Borsad, Kheda và Bardoli ở vùng nông thôn Gujarat, trong đó nông dân sử dụng bất tuân dân sự để phản đối thuế. Bằng cách lãnh đạo các hoạt động này, ông đã phát triển danh tiếng trong INC với tư cách là một nhà quản lý lão luyện. Sau đó, ông thăng tiến trong ban lãnh đạo của INC, phát triển mối quan hệ chặt chẽ với cả Nehru và Gandhi, đặc biệt là khi ông bị giam giữ cùng với Gandhi. Mặc dù ba người đàn ông có mối quan hệ gần gũi, mỗi người trong số họ có những tầm nhìn khác nhau về Ấn Độ. Nehru đã hình dung (và phần lớn đã thành công trong việc tạo ra) một nước cộng hòa Ấn Độ thế tục, xã hội chủ nghĩa. Gandhi có tầm nhìn về một Ấn Độ lấy cộng đồng làng xã làm trung tâm. Patel tập trung vào ý tưởng thống nhất dân tộc và tranh luận cho một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Stuart Corbridge và John Harriss đã nêu bật những nỗ lực sau độc lập của Patel nhằm biến INC thành một đảng chính trị có kỷ luật và khuynh hướng đi theo "hướng chuyên quyền" của ông. Patel đóng vai trò trung tâm trong quyết định cấm các nhóm chính thức trong INC. Việc này không chỉ củng cố sự thống nhất của đảng mà còn làm suy yếu sự ủng hộ xã hội chủ nghĩa của Nehru.  Do đó, ở Ấn Độ, có quan điểm khá phổ biến rằng việc Patel qua đời vào năm 1950 đã tạo điều kiện cho Nehru thực hiện ý tưởng của mình về Ấn Độ.

Mặc dù gần đây ông đã được hình dung lại như một "người hành động" hơn là một "người chỉ nói" (một điểm đối lập giới tính khác với Nehru), việc xem xét các bài viết và bài phát biểu của Patel có thể cho chúng ta biết đôi chút về tư tưởng dân tộc chủ nghĩa của ông. Patel - giống như Nehru - là người Cộng hòa và tin tưởng vào một nhà nước Ấn Độ thế tục. Nhưng ông dễ chấp nhận chủ nghĩa tư bản hơn, tin rằng nhà nước tư bản có thể giảm bớt những khía cạnh thái quá và bóc lột. Tầm nhìn của ông về chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ tập trung vào sự thống nhất. Ông viết rằng người Ấn Độ "phải quên đi những khác biệt về đẳng cấp và tín ngưỡng và nhớ rằng (họ) đều là người Ấn Độ và đều bình đẳng. Không thể có sự phân biệt giữa người với người ở một đất nước tự do". Trong các bài viết của mình, ông đã công khai bác bỏ RSS (Tổ chức Tình nguyện Quốc gia), chủ nghĩa dân tộc Hindu và ý tưởng về một Hindu Rashtra (chính thể Hindu). Trong một bài phát biểu tại Madras năm 1949, ông tuyên bố: “Họ [RSS] muốn rằng Hindu Rajya hoặc văn hóa Hindu phải được áp đặt bằng vũ lực. Không một Chính phủ nào có thể dung thứ cho điều này”. Sau khi cựu thành viên RSS Nathuram Godse ám sát Gandhi, Patel bắt đầu coi thường RSS.

Nehru và Patel có một số bất đồng quan trọng về cách  tổ chức chính trị và kinh tế của Ấn Độ độc lập. Bất chấp những bất đồng của họ, có bằng chứng cho thấy hai người có mối quan hệ tương đối thân thiết, mặc dù đôi khi có tranh chấp. Đặc biệt, sau vụ ám sát Gandhi, hai người đã thể hiện một mặt trận thống nhất để giữ cho Ấn Độ hậu thuộc địa, vốn có có nguy cơ phân rẽ, được thống nhất. Ngay cả đám tang của Gandhi cũng được sử dụng, như Yasmin Khan đã lập luận, để củng cố nhà nước theo tư tưởng Nehru. Khi sự phẫn nộ đối với Godse ( kẻ ám sát ông Gandhi) làm mất tính hợp pháp của chủ nghĩa dân tộc Hindu, nó đã hợp pháp hóa quyền lực của nhà nước Ấn Độ hậu thuộc địa do INC lãnh đạo. Patel đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố điều này, nhưng cái chết của chính ông đã khiến Nehru ít bị phản đối hơn nhiều trong INC.

Khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời của Patel xảy ra trong thời gian ông giữ chức phó thủ tướng dưới quyền Nehru. Sau cuộc nổi dậy của người Ấn Độ năm 1857, tổ chức chính trị ở Ấn Độ thuộc địa được chia thành ba chế độ tổng thống (Madras, Bombay và Calcutta) và một loạt các vương quốc nhỏ do các hoàng tử Ấn Độ quản lý. Có khoảng 560 tiểu quốc của các hoàng tử ở Ấn Độ thuộc địa, mỗi tiểu quốc do một Maharaja (hoàng tử) cai quản và mỗi tiểu bang đều nhất thiết phải ủng hộ người Anh. Ấn Độ nhanh chóng tiếp quản các vùng lãnh thổ bán chủ quyền này và tìm cách, như Itty Abraham giải thích, "nhanh chóng tái khẳng định chủ quyền lãnh thổ của mình theo mọi cách có thể".

Với tư cách là Bộ trưởng Nội vụ, Patel được giao nhiệm vụ sáp nhập các tiểu quốc của Ấn Độ vào thành một nước Ấn Độ lớn. Nhiệm vụ này trao cho ông vai trò trung tâm trong việc xây dựng và lãnh thổ hóa biên giới hậu thuộc địa của Ấn Độ, và chính câu chuyện này khiến ông trở nên hấp dẫn đối với đảng BJP ngày nay. Đã có nhiều nghiên cứu về sự tích hợp các tiểu quốc một cách hiệu quả của Patel, nhưng, như Priya Naik đã lưu ý, có rất ít ký ức về bản thân các tiểu quốc, vì chúng không phù hợp với các câu chuyện lịch sử hậu thuộc địa. Các kỹ thuật mà Patel sử dụng để sáp nhập các tiểu quốc vào Ấn Độ rất đa dạng. Phần lớn, ông đạt được mục tiêu của mình thông qua đàm phán, nhưng các cuộc đàm phán của ông được củng cố bằng mối đe dọa vũ lực. Với sự phân chia, các tiểu bang có quyền lựa chọn gia nhập Ấn Độ hoặc Pakistan. Một số tiểu bang, bao gồm Kashmir, Hyderabad và Travancore, đã phản đối việc gia nhập Liên minh Ấn Độ. Hyderabad có lẽ là nơi phản đối mạnh mẽ nhất. Là một trong những tiểu bang lớn hơn, Hyderabad bao phủ một vùng lãnh thổ rộng lớn và có đường sắt, dịch vụ bưu chính và hãng hàng không riêng. Nizam của Hyderabad (người cai trị bang Hyderabad), Mir Osman Ali Khan Siddiqi (1886–1967), một quốc vương Hồi giáo của một vùng lãnh thổ đa số theo đạo Hindu, đã tìm cách thành lập một quốc gia độc lập và nắm giữ quyền lực cho đến ngày 17 tháng 9 năm 1948. Tuyên bố độc lập của ông đã khiến nhà nước Ấn Độ phản ứng mạnh mẽ và cuối cùng là bằng quân sự. Patel đã đóng vai trò quan trọng trong quyết định sử dụng quân đội để sáp nhập Hyderabad. Ông lập luận rằng điều đó sẽ gửi một tín hiệu đến bất kỳ quốc gia nào khác vẫn đang cố thủ hoặc vẫn đang đàm phán rằng không có lựa chọn nào khác ngoài việc gia nhập Ấn Độ và từ bỏ quyền cai trị độc lập.

Về phần mình, Nehru ủng hộ "hành động của cảnh sát". Tuy nhiên, ông đã học được từ kinh nghiệm từ trải nghiệm ở Hyderabad rằng việc sử dụng vũ lực của nhà nước hậu thực dân cuối cùng sẽ gây tổn hại đến sự hòa hợp cộng đồng Hindu-Hồi giáo. Những hành động của Patel trong cuộc khủng hoảng này khiến việc tưởng niệm ông trở thành "Người đàn ông thép của Ấn Độ" và người thống nhất đất nước trở thành hiện thực. Điều này giúp ông giành được sự ngưỡng mộ của những người theo chủ nghĩa dân tộc vốn không say mê ý tưởng bất bạo động của Gandhi, và sự ngưỡng mộ này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, củng cố cho dự án tưởng niệm hiện tại của ông. Sự sẵn sàng sử dụng vũ lực chống lại một nhà cầm quyền Hồi giáo để thống nhất Ấn Độ của ông đã được định vị là phản đối chủ nghĩa thế tục và chính sách đối ngoại bất bạo động của Nehru. Phong trào Hindutva từ lâu đã cho rằng bất bạo động làm suy yếu và thậm chí "làm suy yếu" Ấn Độ.

“Sự thống nhất trong đa dạng” là một điệp khúc thường được lặp lại ở Ấn Độ, và đó là một yếu tố chính của hệ tư tưởng INC và tư tưởng Nehru. Nhưng sự đa dạng ít được nhấn mạnh hơn trong các tác phẩm của Patel, và đặc biệt là trong bản tưởng niệm đương thời của ông. Ý tưởng về sự thống nhất của ông, theo một số cách, đã vượt ra ngoài việc xác định biên giới quốc gia và mở rộng sang các vấn đề chính trị văn hóa trong các biên giới này. Ông nghi ngờ vùng Đông Bắc Ấn Độ, viết thư cho Nehru về sự bất trung tiềm tàng của khu vực này, đặc biệt là trong bối cảnh mà ông coi là sự thống nhất ngày càng tăng của Trung Quốc. Ông ủng hộ việc tiếng Hindi trở thành ngôn ngữ quốc gia của Ấn Độ và kêu gọi tất cả người Ấn Độ coi mình bình đẳng theo nhà nước Ấn Độ.

Tại Madras năm 1949, ông đã nói với đám đông cử tọa: “Các người muốn tôi nói chuyện với các người bằng tiếng Anh. Tôi sẽ tuân theo lệnh của các người; nhưng hãy tin tôi rằng sẽ không lâu nữa các người sẽ phải nói bằng ngôn ngữ quốc gia của chúng tôi. Nếu các người không làm thế, các người sẽ kéo đất nước tụt hậu.”

Nehru ủng hộ tiếng Hindi không bị Phạn hóa và không bị Ba Tư hóa, nhưng ông cũng nhìn nhận vai trò của tiếng Anh. Tuy nhiên, liên quan hơn đối với bài viết này là ký ức về ông thường gắn liền với việc viết và nói bằng tiếng Anh của ông, và những câu đùa của ông rằng ông là “người Anh cuối cùng cai trị Ấn Độ.”

Việc quốc hữu hóa tiếng Hindi tỏ ra cực kỳ khó khăn và cuối cùng dẫn đến mối đe dọa của bang Tamil Nadu muốn tách khỏi Ấn Độ. Trước mối đe dọa này, Thủ tướng thứ hai của Ấn Độ, Lal Bahadur Shastri, đã thỏa hiệp và biến cả tiếng Anh và tiếng Hindi thành ngôn ngữ chính thức của chính phủ liên bang Ấn Độ.

Mong muốn biến tiếng Hindi thành ngôn ngữ quốc gia, ngay cả khi chỉ theo đuổi một cách tinh tế, và ý tưởng về sự thống nhất đồng hóa vẫn làm sôi động đảng BJP đương thời và khiến Patel trở nên hấp dẫn về mặt chính trị. Một trích dẫn xuất hiện trên trang web Tượng Thống nhất minh họa cho mối liên hệ này giữa Patel và những người theo chủ nghĩa dân tộc Hindu. Trích dẫn đó có nội dung: "Bằng nỗ lực chung, chúng ta có thể đưa đất nước lên một tầm cao mới, trong khi sự thiếu thống nhất sẽ khiến chúng ta phải đối mặt với những tai họa mới".

Tuy nhiên, việc phong trào Hindutva sử dụng Patel trong các diễn ngôn Hindutva hiện đại không chỉ giới hạn ở những điểm chung này; nó còn tìm cách tái cấu trúc hình ảnh Patel. Để hiểu sự chuyển hóa này, chúng ta phải xem xét các chi tiết của dự án Tượng đài Thống nhất, ý nghĩa chính trị, kinh tế và phát triển của nó, cùng với cách kể lại lịch sử Ấn Độ, bên cạnh trải nghiệm khi thăm địa điểm và các biểu tượng cũng như ý nghĩa phía sau việc xây dựng bức tượng này.

Tài liệu tham khảo: xem toàn văn tại nguồn.

Cùng chuyên mục