Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Kinh tế Ấn Độ: Cải cách - Tự do hóa (Phần 2)

Kinh tế Ấn Độ: Cải cách - Tự do hóa (Phần 2)

Từ tháng 7 năm 1991, Chính phủ Ấn Độ đã chính thức quyết định thực hiện chính sách cải cách theo hướng tự do hóa. Quyết định này có thể nói là bước chuyển cơ bản, một bước ngoặt trong chiến lược công nghiệp hóa nói riêng, đường lối phát triển kinh tế - xã hội nói chung của Ấn Độ, đã và đang là một trong những yếu tố tạo đà cho kinh tế Ấn Độ cất cánh nhanh hơn, mạnh hơn và bền vững hơn. Chính nhờ thực hiện một cuộc cải cách mang tính cách mạng và toàn diện theo hướng tự do hóa, GDP của Ấn Độ đã liên tục tăng từ năm khởi đầu cải cách 1991 đến nay, làm thay đổi cơ cấu, diện mạo và sức mạnh nền kinh tế.

06:53 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

(Tiếp theo phần 1)

Kinh tế Ấn Độ: Cải cách - Tự do hóa

PGS, TS Đỗ Đức Định*

Việc cải cách ngành công nghiệp ô tô là một ví dụ điển hình cho các công ty lớn của Ấn Độ dưới chương trình tự do hoá. Để nâng cao năng lực trong cạnh tranh quốc tế, các công ty này đã tăng đầu tư, cải tiến sản xuất để tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế. Các công ty Ấn Độ đã liên doanh với công ty nước ngoài, lắp đặt máy móc thiết bị mới, cải tiến quản lý, chuyển từ các dây chuyền sản xuất hàng loạt theo chức năng sang cơ cấu sản xuất theo đội. Công nhân ký hợp đồng lao động mới theo cơ chế tình nguyện nhằm giảm biên chế. Nhờ đó năng suất lao động đã tăng lên trên hai lần, chất lượng sản phẩm được nâng cao.

Mặc dù có nhiều cố gắng và thực tế đã đạt được một số tiến bộ, nhưng cải cách xí nghiệp công vẫn là một trong những khâu yếu kém nhất trong quá trình cải cách ở Ấn Độ. Tuy các xí nghiệp công đã tăng được sức cạnh tranh, nhưng sự độc lập tự chủ của chúng vẫn bị hạn chế, làm giảm năng lực của giới quản lý trong việc tạo ra những cải cách cơ cấu cần thiết. Hơn nữa, cổ phần của Chính phủ trung ương vẫn rất cao (trong nhiều trường hợp chiếm tới 90%), kể cả trong các xí nghiệp hoạt động thương mại, làm cho hoạt động tài chính của xí nghiệp công rất khó cải thiện.

Cùng với những nỗ lực cải cách cơ cấu, chuyển đổi phương thức quản lý xí nghiệp công, Chính phủ Ấn Độ đã triển khai nhiều chương trình cải cách vĩ mô, nhất là những cải cách trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ - ngân hàng, tiếp đến là những cải cách về thương mại, đầu tư, công nghiệp, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, và những thay đổi trong chính sách quản lý các bang, chính sách tư nhân hoá và cải cách thủ tục hành chính.

Một trong những khâu đột phá trong tiến trình cải cách của Ấn Độ là vừa nới lỏng vừa phát triển hệ thống thể chế trong lĩnh vực hoạt động tài chính - tiền tệ - ngân hàng nhằm tạo cơ hội cho các ngành kinh tế – xã hội tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư phát triển một cách vững chắc. Theo các nhà cải cách Ấn Độ, đây là khâu đóng vai trò quyết định đối với sự thành, bại và hiệu quả của cải cách. Với quyết tâm cải cách, Chính phủ Ấn Độ đã giảm dần sự kiểm soát chặt chẽ và can thiệp sâu trước đây, khuyến khích đầu tư tư nhân trong lĩnh vực ngân hàng, cho phép các ngân hàng nhà nước bán cổ phần, cổ phiếu ra thị trường tự do. Việc cấp vốn cho các dự án dài hạn, ngoài 3 tổ chức tài chính quốc gia còn có một số tổ chức tài chính của các bang và các khu vực được giao nhiệm vụ thực hiện. Các tổ chức tài chính này hỗ trợ cho các hoạt động xuất khẩu và các dự án đầu tư có tính chất mạo hiểm. Nhờ cải cách, các hoạt động tín dụng, thuế, mua cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất, cấp vốn cho các dự án đầu tư và cả các hoạt động của thị trường chứng khoán ở Ấn Độ đã sôi động hơn nhiều so với trước cải cách, nhiều ngân hàng đã dần thích nghi với sự chuyển đổi của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Ấn Độ đã được nâng cao.

Tuy những cải cách trong hệ thống ngân hàng Ấn Độ đã tạo ra những khả năng phát triển năng động và thông thoáng hơn, giảm tính độc quyền, tăng tính cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ, nhưng so với sự hoạt động của hệ thống ngân hàng ở nhiều nước châu Á khác, hệ thống ngân hàng Ấn Độ vẫn bị coi là kém tự do hoá. Mức độ tự quản của các ngân hàng công vẫn thấp, thêm vào đó vẫn nhiều ưu đãi, đặc quyền, đặc lợi, chưa đáp ứng sự cạnh tranh ngày càng tăng của các ngân hàng tư nhân mới và các tổ chức tín dụng. Nhà nước vẫn can thiệp khá sâu vào các quyết định kinh doanh cơ bản của các ngân hàng thương mại, chưa loại bỏ nhiều hạn chế hiện hành và cho phép có sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn từ các ngân hàng tư nhân.

3. Thành quả và triển vọng

Chính nhờ thực hiện một cuộc cải cách mang tính cách mạng và toàn diện theo hướng tự do hóa, GDP của Ấn Độ đã liên tục tăng từ năm khởi đầu cải cách 1991 đến nay, làm thay đổi cơ cấu, diện mạo và sức mạnh nền kinh tế. Ấn Độ không những đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ, mà đã nâng tốc độ tăng GDP từ 1,1% năm 1991 lên bình quân 5,5% trong giai đoạn 11 năm từ 1991 đến 2001, sau đó tăng lên đạt bình quân 7,5%/năm trong giai đoạn 11 năm tiếp theo từ 2002 đến 2012 (Bảng 1).

Bảng 1. Tốc độ tăng GDP và chỉ số CPI của Ấn Độ từ 1978 đến 2012 (%)

Năm

GDP

CPI

Năm

GDP

CPI

Năm

GDP

CPI

1980

6,7

11,4

1991

1,1

  13,5

2002

3,9   

 4,0  

1981

6,0

13,1

1992

5,5

9,6

2003

7,9    

3,9

1982

3,5

7,9

1993

4,8

7,5

2004

7,8    

 

1983

7,3

11,9

1994

6,7

  10,1

2005

9,3    

 

1984

3,8

8,3

1995

7,6

  10,2

2006

9,3   

 

1985

5,3

5,6

1996

7,5

    9,3

2007

   9,8

 

Nguồn: http://data.worldbank.org

Sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế Ấn Độ trước hết là do những biện pháp tự do hoá nền kinh tế đã tạo nên một xung lực mới thúc đẩy nền kinh tế phát triển, làm tăng khả năng mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư. Cuộc cải cách đã thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, tăng thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển thương mại. Việc xuất hiện ngày càng nhiều người tiêu dùng có sức mua lớn ở Ấn Độ đã tạo ra nhiều điều kiện phát triển cho các công ty cỡ vưà và nhỏ. Nhiều nhà kinh tế coi các công ty tư nhân trong điều kiện thu nhập đang tăng này là chìa khóa để phát triển kinh tế thịnh vượng của Ấn Độ trong các thập kỷ tới. Kinh nghiệm Ấn Độ cho thấy, những người gặt hái được nhiều kết quả qua công cuộc cải cách kinh tế là những người có trình độ giáo dục cao như các chuyên gia máy tính, những người có bằng cao học quản trị kinh doanh và các nhà khoa học. Công nghệ cao đã tạo ra những khả năng mở rộng kinh doanh. (Còn tiếp) (Xem tiếp phần 3)

* Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.

Nguồn:

Viết bình luận

Bình luận

Cùng chuyên mục