Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Làm thế nào để Ấn Độ thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Làm thế nào để Ấn Độ thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Với mức thu nhập bình quân đầu người hiện tại của Ấn Độ là 2.540 USD, thì việc đạt được trạng thái thu nhập trung bình cao vẫn còn cách vài năm nữa. Điều cần thiết hiện nay là sự thâm nhập của các công nghệ mới, hiện đại và các mô hình kinh doanh cùng với đầu tư. Để đạt tới mức thu nhập cao, ngoài ra cần có sự đổi mới sáng tạo.

11:00 09-09-2024 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, các quốc gia có thu nhập trung bình có xu hướng đình trệ sau nhiều năm tăng trưởng nhanh chóng trên con đường trở thành nền kinh tế có thu nhập cao. Liệu có tồn tại cái gọi là “bẫy thu nhập trung bình” hay không vẫn còn đang được tranh luận, nhưng Báo cáo Phát triển Thế giới mới nhất của WB đã dành riêng để thảo luận về vấn đề này.

Danh sách hơn 100 quốc gia bao gồm hai trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới, Trung Quốc và Ấn Độ, cho thấy có lẽ quy mô không quan trọng, mặc dù Trung Quốc đang trên đà thoát khỏi nhóm này. Báo cáo này có những hiểu biết tốt về động lực tăng trưởng và cũng có thể là một đợt kiểm tra thực tế cho Ấn Độ trong bối cảnh các mục tiêu của nước này (nền kinh tế phát triển vào năm 2047 hoặc một nền kinh tế trị giá 5 nghìn tỷ USD trong ba năm tới).

Chiến lược 3i để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Nói chung, các quốc gia có thu nhập trung bình đã từ lâu phụ thuộc vào chiến lược tăng trưởng dựa vào đầu tư và vốn nước ngoài, nhưng có thể không còn hiệu quả nữa. Điều cần thiết hiện nay là sự thâm nhập của các công nghệ mới, hiện đại và các mô hình kinh doanh cùng với đầu tư. Để đạt tới mức thu nhập cao, ngoài ra cần có sự đổi mới sáng tạo. Theo báo cáo trên, một chiến lược “kinh doanh như thường lệ” có thể khiến một quốc gia như Ấn Độ mất 75 năm để đạt được chỉ một phần tư mức thu nhập bình quân đầu người của Mỹ.

Với mức thu nhập bình quân đầu người hiện tại là 2.540 USD, thì việc đạt được trạng thái thu nhập trung bình cao vẫn còn cách vài năm nữa. Nhưng quan điểm của WB thực sự là về sự cần thiết phải suy nghĩ lại chiến lược, xét đến thời gian còn lại và những thách thức đáng gờm của hiện tại - dân số già hóa, nợ nần chồng chất, môi trường địa chính trị và thương mại thù địch và những trở ngại từ tác động môi trường. Công nghệ và cải cách là nền tảng của chiến lược 3i gồm đầu tư, thâm nhập và đổi mới sáng tạo.

Đối với các quốc gia muốn tiến lên nhóm thu nhập trung bình cao hơn, báo cáo đề xuất một chiến lược đầu tư dựa trên sự thâm nhập, tức là áp dụng các công nghệ toàn cầu mới và các mô hình kinh doanh vào nền kinh tế lớn hơn. Điều này đòi hỏi có thêm sự chuyển giao công nghệ, cấp phép công nghệ và các chính sách của nhà nước giúp các ngành công nghiệp địa phương hấp thụ công nghệ và mở rộng quy mô. Điều này sẽ cho phép một phần lớn các ngành công nghiệp trong nước trở thành nhà sản xuất toàn cầu cho một loạt các sản phẩm tinh vi.

Chỉ số Phức tạp Kinh tế, theo dõi cụ thể khả năng phức tạp của quốc gia và sản phẩm, hiện xếp Ấn Độ ở vị trí thứ 42, trong khi Hàn Quốc và Trung Quốc đã vươn lên đầu bảng chỉ sau chưa đầy ba thập kỷ.

Tăng trưởng nhanh nhưng thu nhập bình quân đầu người vẫn còn thấp

Trường hợp của Ấn Độ không thực sự là tăng trưởng đình trệ, mà là tăng trưởng không đủ để nâng cao thu nhập bình quân đầu người. Nhưng các chiến lược này chủ yếu dựa vào đầu tư và vốn. Mặc dù tốc độ tăng trưởng tổng thể tăng lên, nhưng việc làm và thu nhập không theo kịp, có lẽ do một số vấn đề cấu trúc tồn tại lâu dài.

Các ngành kinh tế chính của Ấn Độ, nông nghiệp và công nghiệp, đã bị suy yếu trong một thời gian dài. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đã giảm theo năm tháng, chủ yếu do năng suất thấp hơn là một sự chuyển đổi có kế hoạch. Năng suất trên mỗi hecta lúa và lúa mì, hai trong số các cây trồng lớn nhất của nước này, thấp hơn khoảng 50% so với Trung Quốc, quốc gia có quy mô đất nông nghiệp trung bình tương tự. Nhưng ngành này vẫn “thuê mướn” hơn 240 triệu người, thực sự là tình trạng thất nghiệp trá hình do sản lượng thấp và thu nhập thấp. Với quy mô, số người phụ thuộc vào nó và các vấn đề quan trọng về an ninh lương thực và lạm phát giá lương thực, nông nghiệp rõ ràng là ứng viên sáng giá cho chiến lược thâm nhập, vì ngay cả một sự gia tăng nhỏ về năng suất cũng có thể dẫn đến sản lượng và thu nhập cao hơn đáng kể.

Thiếu hụt kỹ năng ảnh hưởng đến cơ cấu việc làm

Vấn đề cấu trúc khác là bản chất của ngành công nghiệp và lao động. Lực lượng lao động có vấn đề lớn về kỹ năng - khoảng 25% trong số 509 triệu lực lượng lao động không biết chữ hoặc không được học chính quy, trong khi 52% khác chỉ được học đến lớp 11 và 12. Sự thâm nhập công nghệ và bí quyết đòi hỏi một lực lượng lao động có kỹ năng phù hợp, điều này khiến nhiệm vụ trở nên cực kỳ khó khăn.

Cơ cấu việc làm được đánh dấu bởi mức độ phi chính thức cao - khoảng 55% lực lượng lao động tự làm chủ hoặc làm việc độc lập, chủ yếu trong nông nghiệp và thương mại, trong khi khoảng 22% là lao động tự do. Theo dữ liệu của ILO, ngành công nghiệp (bao gồm sản xuất, tiện ích, khai khoáng) tuyển dụng khoảng 70 triệu người, trong khi xây dựng cũng tuyển dụng gần một số lượng tương đương với 68 triệu. Nhưng chưa đến một nửa số việc làm công nghiệp là công việc chính thức, trong khi việc làm trong ngành xây dựng gần như hoàn toàn là lao động tự do. Với mức độ phi chính thức lớn như vậy, không có gì ngạc nhiên khi việc tạo việc làm và thu nhập không tăng.

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp (LFPR) là một vấn đề khác. Một lực lượng lao động 509 triệu người tương đương với LFPR 58% (với LFPR nữ còn thấp hơn ở mức 37%). Mặc dù LFPR thấp không phải là điều hiếm gặp, nhưng đối với dân số 1.400 triệu người, nó ngụ ý rằng một bộ phận lớn, đặc biệt là phụ nữ, không tham gia vào nền kinh tế. Ngược lại, Trung Quốc có LFPR 67% và LFPR của phụ nữ là 61%. Thách thức tạo việc làm do đó vượt ra ngoài việc khuyến khích các ngành công nghiệp đến việc khuyến khích tạo ra các công việc phù hợp, đặc biệt là cho phụ nữ.

Chính phủ kỳ vọng vào ngành công nghiệp để tạo việc làm nhưng như báo cáo chỉ ra, vai trò của chính phủ trong việc khuyến khích thâm nhập và đổi mới là quan trọng. Báo cáo đề cập cụ thể đến chính sách bảo lưu quy mô nhỏ dựa trên quy mô của Ấn Độ từ những năm 1960 như một ví dụ kinh điển về việc phân bổ sai nguồn lực và không khuyến khích đổi mới. Nếu tiêu chí là sự hấp thụ công nghệ thay vì quy mô, có lẽ các ưu đãi có thể đã đạt được kết quả tốt hơn. Tương tự, trong nông nghiệp, đầu tư vào nghiên cứu, mở rộng hoặc cơ sở hạ tầng thị trường có thể có cơ hội tốt hơn để nâng cao năng suất và thu nhập nông thôn so với các khoản trợ cấp đầu vào.

Cùng chuyên mục