Mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trước năm 1972
Quan hệ Ấn Độ-Việt Nam bắt nguồn sâu xa trong lịch sử, có niên đại hơn hai thiên niên kỷ.
Quan hệ Ấn Độ-Việt Nam bắt nguồn sâu xa trong lịch sử, có niên đại hơn hai thiên niên kỷ. Bắt đầu từ thời kỳ Phật giáo vào Việt Nam, tới Vương quốc Champa, qua các giai đoạn thuộc địa, hậu thuộc địa, Chiến tranh Lạnh và sau Chiến tranh Lạnh, cho đến chính sách Hành động hướng Đông, những làn sóng can dự này của Ấn Độ với Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác đã đạt được một số dấu mốc quan trọng. trong lịch sử (Muni & Mishra, 2019). Trong thời hiện đại, Ấn Độ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1972. Trước đó, Ấn Độ có quan hệ cấp Lãnh sự quán với miền Bắc cũng như miền Nam Việt Nam.
1. Thời cổ đại:
Phật giáo có lịch sử lâu đời trong việc lan truyền và thâm nhập vào Việt Nam. Thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên: Phật giáo đầu tiên được giới thiệu tại Việt Nam thông qua các thương nhân và nhà sư Ấn Độ. Đền thiêng đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam là Đền Mỹ Sơn, trong tỉnh Quảng Nam, được xây dựng vào thế kỷ 4 sau Công nguyên và là một trong những trung tâm tâm linh của Phật giáo Ấn Độ ở Việt Nam. Thế kỷ thứ 7: Vào thời kỳ này, Phật giáo đã trở thành một trong những tôn giáo chính thống của Việt Nam, và các vương triều cổ đại đã ủng hộ và bảo vệ Phật giáo. Sự phát triển của Phật giáo Thiền: Phật giáo Thiền (hay Zen) cũng đã được giới thiệu và phát triển trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, với nhiều ngôi chùa nổi tiếng như Thiền Lam Sơn, Thiền Trúc Lâm Yên Tử và nhiều khóa tu được tổ chức để giảng dạy Phật pháp và thiền. Sự ảnh hưởng văn hóa và xã hội: Phật giáo đã có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa, tri thức và cuộc sống xã hội của người Việt. Các lễ hội và nghi lễ Phật giáo vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người Việt. Phật giáo đã có một sự hiện diện mạnh mẽ trong lịch sử và văn hóa Việt Nam và tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân Việt Nam đến ngày nay.
Ban đầu Phật giáo truyền vào nước ta chủ yếu trực tiếp từ Ấn Độ. Có thể kể tên một số tăng sỹ Ấn Độ và Trung á sang truyền giáo ở Việt Nam như: Ma Ha Kỳ Vực, Khưu Đa La, Khương Tăng Hội, Chu Cương Lương, Mạt Đa Đề Bà...Đến thế kỷ V, Phật giáo đã được truyền đến nhiều nơi trên đất nước và đã xuất hiện những nhà sư Việt Nam có nhiều danh tiếng như: Huệ Thắng (học trò của Đạt Ma Đề Bà) tu tại chùa Tiên Châu. Tuy nhiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thì từ thế kỷ thứ VI cho đến thế kỷ X vẫn được xem là giai đoạn truyền giáo của đạo Phật, song giai đoạn này các nhà truyền giáo của Ấn Độ bắt đầu giảm dần và các nhà truyền giáo của Trung Quốc bắt đầu tăng lên, dẫn theo đó bắt đầu có các phái thiền của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam. Phật giáo Việt Nam có bề dày lịch sử gần hai chục thế kỷ. Trong quá trình đó, Phật giáo Việt Nam đã luôn giữ và làm tốt vai trò “Hộ quốc an dân” góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng nền văn hóa dân tộc; ngày nay với đường hướng tiến bộ “Đạo pháp - Dân tộc- Chủ nghĩa xã hội”, tăng, ni, tín đồ phật giáo cả nước tiếp tục có những đóng góp quan trọng trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước.
Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong bức tranh văn hóa Việt Nam tỏ rõ qua nhiều khía cạnh như kiến trúc, nghệ thuật, tôn giáo, và cấu trúc tổ chức nhà nước. Tất cả những đặc điểm này tập trung đầy đủ và sâu sắc trong văn hóa Champa. Nói cách khác, qua văn hóa Champa, Việt Nam đã hấp thụ và tích hợp nhiều yếu tố của văn hóa Ấn Độ. Minh chứng độc đáo cho những dấu ấn Ấn Độ trong thời kỳ này tới hiện nay là sự tồn tại và hoạt động của các ngôi đền Hindu ở TP.HCM. Ba ngôi chùa còn hoạt động còn lại gồm có chùa Subramanyam Swamy (98 Nam Kỳ Khởi Nghĩa), chùa Sri Thenday Yutha pani (66 Tôn Thât Thiệp), và chùa Mariamman (45 Trương Định), tất cả đều ở quận 1, TP.HCM. Như vậy, từ cổ đại đến hiện đại, dấu ấn của Phật giáo và Ấn Độ giáo đã được tìm thấy ở Việt Nam. Dấu vết tôn giáo Ấn Độ đã hòa nhập vào văn hóa Việt Nam và trở thành một phần không thể tách rời của văn hóa bản địa Việt Nam.
2. Đầu thế kỷ 20:
Nguyễn Ái Quốc là nhân vật anh hùng trong cuộc chiến giải phóng dân tộc Việt Nam. Ông được coi là một trong những nhà lãnh đạo chính trị có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX, không chỉ ảnh hưởng đến lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn có những đóng góp quan trọng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như cho sự giải phóng các dân tộc thuộc địa trên khắp thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã chọn con đường của một chiến sĩ cộng sản quốc tế, và ông thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với phong trào cách mạng thuộc địa ở Châu Á, trong đó có Ấn Độ - quê hương của một nền văn minh lâu đời nhất thế giới với tư tưởng Phật giáo, nghệ thuật và khoa học phát triển. Ấn Độ đã phải đối mặt với thực dân Anh trong hàng thế kỷ, và nhân dân Ấn Độ đã dũng cảm chiến đấu để giành lại độc lập và tự do.
Chính sách của thực dân Anh là sử dụng chiến thuật chia rẽ dân tộc Ấn, thúc đẩy họ theo đạo Hồi chống lại đạo Bàlamôn, tạo ra mối ganh đua giữa các tiểu vương và gây mâu thuẫn giữa họ để duy trì sự ủng hộ cho chế độ thực dân. Điều này giúp một nhóm người Anh duy trì sự thống trị đối với hơn 300 triệu dân Ấn Độ - một đội dân số lớn gấp mười lần so với người Anh vào thời điểm đó. Với tri thức sâu rộng, tư duy chính trị nhạy bén, và khả năng phê phán sắc bén, Nguyễn Ái Quốc đã từ những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, chú ý đặc biệt đến Ấn Độ. Ông đã tham gia vào cuộc chiến chống thực dân bằng nhiều cách khác nhau, chủ yếu là thông qua việc sử dụng bút và các cơ quan ngôn luận. Những bài viết của ông không chỉ cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về tình hình Ấn Độ, mà còn khẳng định vai trò của một chiến sĩ quốc tế đồng cảm, chia sẻ khổ đau, và hướng dẫn cho cuộc chiến đấu, đồng thời truyền đạt niềm tin vào thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc.
Trong vai trò là một chiến sĩ cộng sản quốc tế, đóng góp của Nguyễn Ái Quốc mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều quốc gia thuộc địa, đặc biệt là trong bối cảnh cách mạng giải phóng dân tộc ở Ấn Độ. Ông đã đặt nền móng cho một tuyên ngôn mạnh mẽ, châm ngôn đanh thép, tố cáo chủ nghĩa thực dân và đế quốc nói chung, và chủ nghĩa thực dân Anh tại Ấn Độ nói riêng. Các ý tưởng về cách mạng vô sản và quốc tế cộng sản đã được Nguyễn Ái Quốc truyền đạt, khuyến khích các dân tộc thuộc địa theo đuổi con đường cách mạng. Tinh thần đồng lòng và sự hiểu biết sâu sắc về tình hình quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã định hình hướng dẫn và lãnh đạo cho những nỗ lực giải phóng dân tộc tại Ấn Độ, thể hiện lòng đoàn kết và sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía các cộng sản quốc tế. Đó là một phần quan trọng của tư tưởng và chiến lược của ông, góp phần xây dựng một liên minh quốc tế vững mạnh, hướng tới mục tiêu chung là giải phóng dân tộc và xây dựng một thế giới bình đẳng.[1]
3. Giai đoạn 1945-1972:
Lịch sử độc lập của Ấn Độ bắt đầu khi quốc gia này giành độc lập khỏi sự cai trị của Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Từ năm 1858, người Anh đã thống trị trực tiếp và có ảnh hưởng lớn đến sự thống nhất chính trị và kinh tế của tiểu lục địa này. Khi sự đô hộ của thực dân Anh kết thúc vào năm 1947, Ấn Độ chia thành hai quốc gia dựa trên khác biệt tôn giáo, là Ấn Độ với đa số người theo đạo Hindu và Pakistan với đa số theo Hồi giáo. Đồng thời, vùng đất phía đông và tây bắc của Ấn Độ, thuộc sở hữu chủ yếu của Anh và có đa số dân theo đạo Hồi, trở thành Lãnh thổ tự trị Pakistan khi bị chia cắt khỏi Ấn Độ. Quá trình chia cắt này đã dẫn đến cuộc di cư lớn, ảnh hưởng đến hơn 10 triệu người ở giữa Ấn Độ và Pakistan. Jawaharlal Nehru, nhà lãnh đạo của Đảng Quốc Đại Ấn Độ, trở thành thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ. Tuy nhiên, nhân vật nổi bật nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập là Mahatma Gandhi, nhưng ông không giữ chức vụ nào trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp được thông qua vào năm 1950 đã chuyển Ấn Độ thành một quốc gia dân chủ, và hệ thống dân chủ này đã được duy trì từ đó. Các quyền tự do dân chủ của Ấn Độ, duy trì một cách bền vững, là một trong những điều độc đáo nhất trong số các quốc gia mới độc lập trên thế giới.
Năm 1954, chỉ sau một tuần kể từ ngày Thủ đô Hà Nội giành được hoàn toàn sự tự do khỏi bàn tay chiếm đóng của thực dân Pháp, Thủ tướng Ấn Độ J. Nehru - người đứng đầu chính phủ đầu tiên của một quốc gia ngoại quốc - đã thực hiện chuyến thăm đến Hà Nội. Hành động này một lần nữa làm bừng tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ của Chính phủ Ấn Độ đối với nhân dân Việt Nam. Trong năm 1958, trong chuyến thăm chính thức Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quan điểm: Chúng tôi tin rằng hành trình này sẽ gắn kết mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước chúng ta, đồng thời đóng góp vào việc củng cố tình đoàn kết giữa các quốc gia châu Á và Phi, cũng như thể hiện sự đoàn kết mạnh mẽ hơn trong nỗ lực bảo vệ hòa bình châu Á và toàn cầu. Cả hai quốc gia liên tục đồng lòng hỗ trợ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế. Việt Nam hỗ trợ chính sách Không Liên Kết của Ấn Độ, trong khi Ấn Độ giữ vị trí Chủ tịch trong Ủy ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế (ICSC), được thành lập theo Hiệp định Genève năm 1954 nhằm ủng hộ quá trình hòa bình ở Việt Nam.[2]
Khi Lal Bahadur Shastri lên nắm quyền ở Ấn Độ vào năm 1964, ông tiếp tục chính sách không liên kết của Nehru. Shastri giữ lại nhiều thành viên trong Hội đồng Bộ trưởng của Nehru. Với nền tảng xã hội chủ nghĩa, Shastri đã xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô. Nhiệm kỳ Thủ tướng Ấn Độ của Shastri chỉ kéo dài mười chín tháng do ông đột ngột qua đời ở Tashkent (khi đó là Liên Xô). Thủ tướng Shastri ủng hộ chính nghĩa của Miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ. Năm 1964, trước khi sang thăm Hoa Kỳ, Shastri đã kêu gọi Hoa Kỳ lập lại hòa bình. Shastri đã cố gắng thuyết phục các nước khác triệu tập một hội nghị kiểu Geneva. Không hài lòng với lập trường của Ấn Độ tại Việt Nam, Mỹ yêu cầu hoãn chuyến thăm dự kiến của Thủ tướng Shastri tới Mỹ, Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Shastri đã phải trả giá bằng mồi quan hệ song phương với Mỹ khi công khai ủng hộ Bắc Việt Nam. Trong thời gian này, người dân Ấn Độ hoàn toàn ủng hộ Việt Nam, điều này được chứng minh bằng việc người dân thành phố Kolkata lặp lại khẩu hiệu Tôi tên là Việt Nam, Tên bạn là Việt Nam, Tất cả tên chúng tôi là Việt Nam” (Amar Nam, Tomar Nam, Vietnam, Vietnam). Sự hỗ trợ của Ấn Độ đối với Bắc Việt Nam dù phải trả giá bằng mối quan hệ với Mỹ là một bằng chứng đáng chú ý cho thấy Ấn Độ là đối tác đáng tin cậy của Việt Nam trong những lúc cần thiết. Sự hỗ trợ này có thể xuất phát từ chính sách đối ngoại độc lập và không liên kết của Ấn Độ trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh đang diễn ra. Nhưng đồng thời, nó có thể là kết quả của việc cân nhắc rằng sự hỗ trợ của Ấn Độ dành cho Việt Nam sẽ ngăn cản Việt Nam tiến gần hơn nữa đến Trung Quốc, như đã xảy ra trong cuộc chiến tranh biên giới Ấn Độ - Trung Quốc năm 1962 (Reena & Le 2022, tr. 7).
Khi Indira Gandhi trở thành Thủ tướng Ấn Độ vào năm 1966, lập trường của Ấn Độ đối với Việt Nam và việc Mỹ ném bom Việt Nam đã dần thay đổi. Sự gần gũi ngày càng tăng của Indira Gandhi với Liên Xô đã giúp cải thiện mối quan hệ của Ấn Độ với Bắc Việt. Khi Mỹ ném bom Hà Nội và Hải Phòng tháng 6/1966, Ấn Độ lên án gay gắt hoạt động ném bom của Mỹ. Kể từ đó, chính sách của Ấn Độ đối với Việt Nam là kêu gọi ngừng ném bom vô điều kiện. Trong chuyến thăm Liên Xô của Indira Gandhi vào tháng 7 năm 1966, bà đã có một thông cáo chung với Kosygin, Thủ tướng Liên Xô, trong đó bà kêu gọi “chấm dứt ngay lập tức các vụ đánh bom và giải quyết xung đột ở Việt Nam trong khuôn khổ hiệp định Geneva”. Indira Gandhi cũng đưa ra một số đề xuất nhằm chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Bà đưa ra một đề xuất bảy điểm trong đó kêu gọi “(1) triệu tập Hội nghị Geneva bởi các Đồng Chủ tịch, (2) chấm dứt ngay việc ném bom ở miền Bắc Việt Nam và sau đó là chấm dứt chiến sự, (3) ICC để bảo vệ tình trạng bế tắc, (4) Ấn Độ, với tư cách là Chủ tịch ICC, sẵn sàng chấp nhận thêm trách nhiệm, (5) rút toàn bộ lực lượng nước ngoài tại Việt Nam, (6) Hội nghị Geneva để đảm bảo sự toàn vẹn và độc lập của các quốc gia Đông Dương và (7) kế hoạch phục hồi và phát triển để khắc phục sự tàn phá của chiến tranh”. Indira Gandhi cho rằng chiến tranh Đông Dương là “cuộc xung đột vô nghĩa nhất” thời hiện đại và đánh giá cao cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam chống lại sự thống trị của ngoại bang (Reena & Le 2022, tr. 9).
Tài liệu tham khảo
Reena Marwah & Le Thi Hang Nga (2022). India-Vietnam Relations: Development Dynamics and Strategic Alignment. Springer
Nông Thị Xuân (2015). Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với phong trào cách mạng Ấn Độ những năm 20 thế kỷ XX. Tạp chí Tuyên giáo, 7/2015
Nguyễn Trần Xuân Sơn (2022). Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ: 50 năm gắn kết tình hữu nghị. Tạp chí Cộng sản, 7/2022
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục
Một thập kỷ Chính sách Hành động phía Đông của Ấn Độ
10 năm CIS 03:00 15-10-2024
Brunei và Chính sách Hành động phía Đông của Ấn Độ
10 năm CIS 09:00 20-09-2024
Ấn Độ và vai trò lãnh đạo về nhiên liệu bền vững
10 năm CIS 09:00 19-09-2024
Đảng Nhân dân Ấn Độ - BJP của Ấn Độ: Một giới thiệu ngắn gọn
10 năm CIS 08:00 12-09-2024
Hướng đến mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa Ấn Độ và Malaysia
10 năm CIS 04:00 10-09-2024