Ngoại giao công nghệ của Ấn Độ
Tiến triển của chính phủ Modi với Mỹ không phải là lần đầu tiên Delhi đưa công nghệ lên hàng đầu trong chương trình nghị sự ngoại giao và chiến lược của mình. Nhưng ngày nay, cả các yếu tố trong nước và bên ngoài đang kết hợp lại với nhau để tạo điều kiện cho mối quan hệ đối tác ngày càng sâu sắc
Sự trở lại của một chính phủ đa số lên nắm quyền vào năm 2014 đã giải phóng nguồn năng lượng mới vào ngoại giao công nghệ của Ấn Độ trong giai đoạn thứ tư.
Dù hiểu theo cách nào thì cũng không thể bỏ qua tính trung tâm và cường độ của hợp tác công nghệ trong chuyến thăm Mỹ vừa kết thúc của Thủ tướng Narendra Modi. Công nghệ là trọng tâm trong các tương tác song phương của Modi với Tổng thống Joe Biden, hội nghị thượng đỉnh nhỏ của các nhà lãnh đạo Quad, tương tác của ông với các giám đốc điều hành Mỹ và bài phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về Tương lai.
Kết quả từ ngoại giao công nghệ của Thủ tướng rất rộng lớn — bạn phải là một mọt sách thực sự mới có thể đọc hết các tuyên bố chung dài dòng do Thủ tướng đưa ra trong cuộc gặp song phương với Biden và hội nghị thượng đỉnh Quad và là một chuyên gia chính sách công nghệ để hiểu được ý nghĩa của nhiều sáng kiến mới. Chúng bao gồm các lĩnh vực từ chất bán dẫn đến công nghệ sinh học, viễn thông đến trí tuệ nhân tạo, năng lượng sạch đến máy tính lượng tử và lò phản ứng hạt nhân nhỏ và mô-đun đến robot. Chúng bao gồm cả các ứng dụng dân sự và quân sự tiên tiến và chắc chắn sẽ đóng góp vào quá trình hiện đại hóa cơ sở công nghiệp công nghệ của Ấn Độ.
Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên công nghệ được đưa lên hàng đầu trong chiến lược quốc gia và ngoại giao của Ấn Độ. Đã có ít nhất ba lần trước đó trong lịch sử Ấn Độ độc lập khi công nghệ trở thành tâm điểm. Mỗi giai đoạn đó đều kết thúc mà không nhận ra được hết khả năng của Ấn Độ vì các yếu tố bên trong và bên ngoài đã hạn chế nghiêm trọng các chiến lược công nghệ. Ngày nay, trong nước và bên ngoài đang cùng nhau biến giai đoạn thứ tư của ngoại giao công nghệ của Ấn Độ thành giai đoạn có hậu quả đối với an ninh và thịnh vượng của Ấn Độ.
Trọng tâm mới của chính phủ NDA là xây dựng năng lực công nghệ tiên tiến, Washington tìm kiếm các đối tác có năng lực trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng sâu sắc với Bắc Kinh và nỗ lực sắp xếp lại chuỗi cung ứng toàn cầu đang thúc đẩy Ấn Độ và Mỹ. Công nghệ đã trở thành trọng tâm quan trọng trong sự hợp tác của Ấn Độ không chỉ với Hoa Kỳ mà còn với một số quốc gia bao gồm Pháp, Đức, Anh, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, và Liên minh Châu Âu.
Quay trở lại những năm 1950, Thủ tướng Jawaharlal Nehru đặc biệt nhấn mạnh vào việc tiếp cận các công nghệ tiên tiến như một động lực chính cho quá trình hiện đại hóa kinh tế của Ấn Độ. Cùng với Homi Bhabha, Nehru đã tiếp cận Mỹ và các cường quốc phương Tây khác để đặt nền móng thành công cho sự phát triển công nghệ hạt nhân và không gian tại Ấn Độ. Mỹ cũng trở thành một bên ủng hộ chính cho Cách mạng Xanh thông qua sự hợp tác trong công nghệ nông nghiệp. Địa chính trị của thời điểm đó cũng như tinh thần “chủ nghĩa quốc tế khoa học” và “chủ nghĩa phát triển” tại Mỹ đã mang lại động lực rất cần thiết cho ngoại giao công nghệ của Delhi.
Đến những năm 1970, động lực bắt đầu suy yếu giữa bối cảnh chủ nghĩa dân túy kinh tế của Ấn Độ, chủ nghĩa bài Mỹ, sự quan liêu hóa ngày càng tăng của khoa học và công nghệ, sự gạt ra ngoài lề của khu vực tư nhân Ấn Độ, sự dịch chuyển của Delhi về phía Moscow, cuộc thử hạt nhân năm 1974 của Ấn Độ và sự củng cố chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân toàn cầu đã liên tục thu hẹp không gian cho ngoại giao công nghệ.
Không gian tồn tại trong các lĩnh vực không nhạy cảm khi đó đã bị đối xử khinh thường ở Delhi. Hãy nhớ lại rằng Delhi đã khiến IBM khó có thể ở lại Ấn Độ. Và sự thiếu quan tâm của họ đã thúc đẩy các nhà sản xuất chất bán dẫn của Hoa Kỳ đến Singapore và Malaysia. Trong khi đó, một số lượng lớn các nhà khoa học và công nghệ được đào tạo tại các trường đại học và IIT của Ấn Độ, thất vọng vì thiếu cơ hội trong nước, đã bước ra ngoài và bước qua cánh cửa rộng mở của Mỹ để tiếp cận nhân tài công nghệ. Trong khi đó, sự nổi bật của Liên Xô trong các chương trình quốc phòng, năng lượng nguyên tử và không gian vũ trụ của Ấn Độ bắt đầu tăng lên vào những năm 1970.
Indira Gandhi và Rajiv Gandhi đã nỗ lực rất nhiều vào những năm 1980 để khắc phục những thất bại của giai đoạn đầu tiên bằng cách đưa hợp tác công nghệ trở lại trọng tâm trong quan hệ Ấn - Mỹ. và khám phá không gian tồn tại bên ngoài phạm vi của chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân. Định hướng công nghệ mạnh mẽ của Rajiv Gandhi và sự nhấn mạnh đặc biệt của ông vào khả năng viễn thông và máy tính đã cung cấp năng lượng chính trị ở cấp cao nhất để thúc đẩy sự hợp tác công nghệ lớn hơn với Mỹ. Trong khi giai đoạn thứ hai tạo ra một số kết quả đáng kể, thì những hạn chế về mặt cấu trúc - sự phản kháng của bộ máy quan liêu nội bộ và những hạn chế bên ngoài do chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân thúc đẩy - đã hạn chế tiến triển.
Các cuộc thử hạt nhân của Ấn Độ năm 1998 đã khiến vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi Hoa Kỳ áp đặt thêm các lệnh trừng phạt, nhưng chúng cũng thuyết phục Washington tìm cách hòa giải với Ấn Độ về các vấn đề hạt nhân đã quá hạn từ lâu. Chính phủ Atal Bihari Vajpayee và Manmohan Singh đã tìm cách phát huy cơ hội này và thời điểm quan trọng đã đến vào năm 2005 với sáng kiến hạt nhân dân sự Ấn - Mỹ. Nhưng sự chia rẽ sâu sắc trong giới chính trị và sự phản đối từ bộ máy quan liêu khoa học đã khiến Ấn Độ khó nắm bắt thời cơ.
Sự trở lại của chính phủ đa số lên nắm quyền vào năm 2014 đã giải phóng nguồn năng lượng mới vào ngoại giao công nghệ của Ấn Độ trong giai đoạn thứ tư. Đầu tiên, chính phủ Modi bắt đầu giải quyết một số vấn đề còn bỏ ngỏ của thỏa thuận hạt nhân Mỹ và đưa công nghệ kỹ thuật số và công nghệ xanh lên hàng đầu trong chương trình nghị sự chính sách trong nhiệm kỳ đầu tiên. Trọng tâm công nghệ được mở rộng để bao gồm AI và chất bán dẫn trong nhiệm kỳ thứ hai. Những sáng kiến này phù hợp với cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra trên thế giới và đã có được động lực mới trong nhiệm kỳ thứ ba.
Về phía Mỹ, sự công nhận ngày càng tăng đối với những thách thức do Trung Quốc đặt ra dưới thời George W. Bush, Barack Obama, Donald Trump và Biden đã dẫn đến việc mở rộng đầu tư vào quan hệ đối tác quốc phòng và công nghệ với Ấn Độ. Điều này đạt đến đỉnh cao trong sáng kiến về các công nghệ quan trọng và mới nổi (iCET). Tuyên bố chung tại Wilmington vào thứ Bảy tuần trước bổ sung vào khuôn khổ rộng lớn cho hợp tác chiến lược và công nghệ được công bố trong chuyến thăm cấp nhà nước của Modi tới Washington vào tháng 6 năm 2023.
Lợi ích địa chính trị chung của Mỹ và Ấn Độ trong việc ổn định cán cân quyền lực ở châu Á đã được củng cố bởi mong muốn chung là giảm sự phụ thuộc kinh tế toàn cầu quá mức vào Trung Quốc và xây dựng liên minh công nghệ giữa các quốc gia có cùng chí hướng. "Chảy máu chất xám" của Ấn Độ sang Mỹ từ cuối những năm 1960 hiện đã trở thành cầu nối công nghệ sống động giữa hai quốc gia.
Giai đoạn thứ tư của ngoại giao công nghệ của Ấn Độ đã làm tốt trong việc nắm bắt các khả năng quốc tế mới, nhưng cần phải được củng cố trong nước bằng cải cách khoa học và công nghệ đã quá hạn từ lâu. Nếu không, sự phản kháng của bộ máy quan liêu nội bộ chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả không tối ưu.
GS. C. Raja Mohan
Tài liệu tham khảo
https://indianexpress.com/article/opinion/columns/c-raja-mohan-writes-indias-tech-diplomacy-from-nehru-to-modi-9586401/
https://indianexpress.com/about/ibm/
https://indianexpress.com/about/manmohan-singh/
https://indianexpress.com/about/barack-obama/
https://indianexpress.com/about/donald-trump/
Nguồn:
Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục