Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Ngoại giao năng lượng của Ấn Độ trong khu vực láng giềng

Ngoại giao năng lượng của Ấn Độ trong khu vực láng giềng

Bằng cách đầu tư vào cơ sở hạ tầng năng lượng khu vực và thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau, Ấn Độ nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc và nâng cao vị thế toàn cầu.

10:00 11-11-2024 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

An ninh năng lượng của Ấn Độ đã trở nên mong manh hơn trong 20 năm qua khi nhập khẩu năng lượng của quốc gia này tăng hơn gấp đôi, chiếm 40% nhu cầu năng lượng vào năm 2022 từ mức 18% năm 2002. Cùng thời gian này, Ấn Độ cũng đã đa dạng hóa các đối tác năng lượng từ 14 lên 32 quốc gia. Những nguồn cung và đa dạng hóa này là yếu tố thiết yếu đối với an ninh kinh tế tổng thể của Ấn Độ trong bối cảnh nền kinh tế quốc gia đang tăng trưởng khoảng 8% mỗi năm và cần nhiều nguồn cung năng lượng hơn để duy trì đà tăng trưởng.

Một trụ cột quan trọng trong chiến lược của Chính phủ Ấn Độ nhằm xây dựng chuỗi cung ứng năng lượng bền vững là "gần biển" (nearshoring) các nguồn cung và xanh hóa lưới điện quốc gia. Chính phủ đang thực hiện các mục tiêu này song song với chính sách "Láng giềng là Trước hết" thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng khắp khu vực Nam Á. New Delhi đang xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo (các nhà máy thủy điện và công viên năng lượng mặt trời) tại Bangladesh, Bhutan, Nepal và Sri Lanka, đồng thời kết nối hệ thống năng lượng quốc gia của các nước này với Ấn Độ để xuất khẩu năng lượng dư thừa. Bài viết này phân tích hợp tác năng lượng của Ấn Độ ở Nam Á, đánh giá tác động của nó đối với việc tăng cường kết nối khu vực và làm sáng tỏ động cơ địa chính trị của New Delhi đối với chiến lược năng lượng Nam Á.

Hợp tác năng lượng của Ấn Độ tại Nam Á

Hỗ trợ phát triển của Ấn Độ cho các nước láng giềng đã tăng mạnh sau năm 2005, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 11,4%, đạt 7,6 tỷ USD vào năm 2023 từ mức 968 triệu USD năm 2005. Sự phát triển này đạt được nhờ các cải cách kinh tế năm 1991, dẫn đến tăng trưởng kinh tế bền vững trong hơn một thập kỷ, giúp New Delhi có thể xây dựng các quan hệ đối tác kinh tế sâu sắc và ý nghĩa hơn ở Nam Á. Trong lĩnh vực năng lượng, Ấn Độ đã cho vay, đầu tư hoặc gia hạn tín dụng trị giá 7,15 tỷ USD từ năm 2005 đến 2023 để thúc đẩy hợp tác với các nước láng giềng - Bangladesh, Bhutan và Nepal. Hỗ trợ phát triển năng lượng của Ấn Độ bao gồm các dự án đường dây truyền tải điện xuyên biên giới, nhà máy thủy điện, đường ống dẫn dầu và khí đốt, và các tuyến ngầm dưới biển để tích hợp lưới điện. Đây là những dự án kết nối năng lượng khu vực quan trọng mà Ấn Độ đang thực hiện, vì Nepal, Bhutan và Bangladesh đóng vai trò quan trọng trong ma trận an ninh năng lượng của Ấn Độ. Sự phát triển các đường dây truyền tải điện và dự án thủy điện tại các nước này đã giúp thương mại điện năng giữa các nước trong khu vực tăng từ 2 tỷ đơn vị lên 8 tỷ đơn vị từ 2016 đến 2023.

Nỗ lực phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng của Ấn Độ với Nepal đã culminated trong thỏa thuận mua điện dài hạn 25 năm giữa hai quốc gia, trong đó Ấn Độ sẽ mua 10,000 MW điện thủy điện từ Nepal mỗi năm vào năm 2030. Trong năm tài chính 2022, Ấn Độ nhập khẩu 1500 GW điện từ Nepal. Quan hệ đối tác năng lượng Ấn Độ-Nepal mang tính hiệp lực cao. Các khu vực biên giới và bang phía Bắc của Ấn Độ thiếu hụt năng lượng, với việc cắt điện thường xuyên ở các thành phố loại hai. Nepal hiện có hơn một trăm nhà máy thủy điện và khoảng một trăm năm mươi nhà máy đang được triển khai. Năng lực phát triển thủy điện nhanh chóng này sẽ tạo ra lượng điện dư thừa mà các quốc gia láng giềng cần năng lượng như Ấn Độ và Bangladesh có thể tận dụng.

Tương tự, Ấn Độ và Bhutan cũng hưởng lợi từ quan hệ đối tác năng lượng đôi bên cùng có lợi. Trong năm tài chính 2022, Ấn Độ nhập khẩu 1500 MW điện trị giá 83 triệu USD từ Bhutan, chiếm 70% công suất thủy điện của Bhutan. Thimphu hiện đang phối hợp với các ngân hàng phát triển đa phương như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á và các đối tác song phương như Ấn Độ để tăng công suất thủy điện lắp đặt (2,3 GW) nhằm cung cấp cho các nước láng giềng thiếu năng lượng như Ấn Độ, Bangladesh và Myanmar.

Hợp tác năng lượng của Ấn Độ với Bangladesh chủ yếu liên quan đến nhập khẩu thông qua đường ống Hữu nghị Ấn Độ-Bangladesh (IBFP) và mạng lưới truyền tải điện mới được phát triển. Ấn Độ cũng đang nỗ lực kết nối Bhutan và Nepal với Bangladesh thông qua lãnh thổ Ấn Độ nhằm tăng cường kết nối năng lượng toàn Nam Á.

Đối trọng với sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc

Các quan hệ đối tác phát triển của New Delhi tại Nam Á cũng nhằm đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực Nam Á. Sáng kiến phát triển cơ sở hạ tầng xuyên quốc gia của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), đã đầu tư hơn 150 tỷ USD vào Nam Á từ năm 2013-2023 để phát triển cơ sở hạ tầng cho tăng trưởng trong các lĩnh vực kinh tế quan trọng, từ đó nâng cao sức mạnh địa chính trị và kinh tế của Trung Quốc, đồng thời củng cố vị thế của Trung Quốc như một đối tác phát triển chính trong khu vực. Trong số các khoản đầu tư BRI tại Nam Á, 54 tỷ USD đã được rót vào phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng tại Bangladesh, Nepal, Myanmar, Sri Lanka và Pakistan. Các khoản đầu tư năng lượng của Trung Quốc tại khu vực này xuất phát từ chiến lược an ninh năng lượng của Trung Quốc, tương tự như của Ấn Độ. Bắc Kinh mong muốn phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng để nhập khẩu năng lượng từ các đối tác Nam Á.

Kết luận

Hợp tác năng lượng của Ấn Độ với các nước láng giềng Nam Á là trụ cột trong chính sách đối ngoại và an ninh năng lượng của nước này. Bằng cách đầu tư vào cơ sở hạ tầng năng lượng khu vực và thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau, Ấn Độ hy vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc và củng cố vị thế toàn cầu.

 

Cùng chuyên mục