Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong chính trị, ngoại giao
Từ khi thiết lập mối quan hệ ngoại giao vào năm 1972 và đặc biệt là từ khi nâng cấp thành quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vào năm 2016, quan hệ giữa hai quốc gia Việt Nam và Ấn Độ đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Lòng tin chiến lược không ngừng được củng cố thông qua sự hợp tác mật thiết của các cơ quan Bộ, ban, ngành, các địa phương, và qua các cuộc trao đổi, tiếp xúc thường xuyên giữa các lãnh đạo cấp cao. Trong suốt 50 năm qua, Ấn Độ đã khẳng định vai trò của mình như một đối tác đáng tin cậy của Việt Nam, thường xuyên bày tỏ sự ủng hộ cho con đường phát triển và chính sách của Việt Nam tại nhiều diễn đàn khu vực và quốc tế. Sự hợp tác giữa hai quốc gia không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao, mà còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là kinh tế và quốc phòng - an ninh.[1]
Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ khi Chính phủ Thủ tướng Ấn Độ N. Modi đưa ra việc nâng cấp Chính sách hướng Đông thành Chính sách Hành động hướng Đông. Điều này thể hiện quyết tâm của Ấn Độ trong việc tăng cường kết nối kinh tế với thị trường Đông Nam Á và nâng cao vai trò của mình tại khu vực. Việt Nam được đánh giá là một trong những đối tác quan trọng trong chiến lược này, như được Thủ tướng Ấn Độ N. Modi tuyên bố vào ngày 3-9-2016, trước Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Hàng Châu, Trung Quốc. Ông nhấn mạnh rằng “Việt Nam là trụ cột mạnh mẽ trong chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ” và “quan hệ song phương giữa hai nước dựa trên sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau và hội tụ những quan điểm về các vấn đề khác nhau trong khu vực và toàn cầu.” Đặt Việt Nam ở vị trí quan trọng như trọng tâm và cầu nối trong chính sách Hành động hướng Đông không chỉ thúc đẩy quan hệ chung giữa hai nước mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ xứng tầm đối tác chiến lược toàn diện.
Năm 2015, Thủ tướng Ấn Độ đã công khai tầm nhìn của mình về Ấn Độ Dương thông qua “SAGAR” (có nghĩa là Đại dương trong tiếng Phạn) cũng là từ viết tắt của “An ninh và Tăng trưởng cho tất cả trong Khu vực”, là một chương trình toàn diện nhằm làm sâu sắc thêm mối quan hệ của Ấn Độ với các nước láng giềng trên biển. Tuy nhiên, Chính phủ Ấn Độ đã không công bố bất kỳ tài liệu chính thức nào nêu chi tiết cụ thể về tầm nhìn này, ngoại trừ việc tiếp tục sử dụng nó trong các bài phát biểu của các quan chức Bộ Ngoại giao. Năm 2018 tại Đối thoại Shangri La ở Singapore và năm 2019 tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á ở Bangkok, Thủ tướng Modi đã tiếp tục phát triển ý tưởng về SAGAR và công bố “Sáng kiến Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” để hỗ trợ xây dựng cấu trúc khu vực dựa trên luật lệ dựa trên bảy trụ cột. Các trụ cột là an ninh hàng hải; sinh thái biển; tài nguyên biển; xây dựng năng lực/chia sẻ tài nguyên; quản lý và giảm nhẹ rủi ro thiên tai; hợp tác khoa học, công nghệ, học thuật; và kết nối thương mại/vận tải.
Mặc dù rõ ràng là SAGAR mong muốn tích cực theo đuổi các lợi ích kinh tế và chiến lược cụ thể trong IOR, nhưng lợi ích địa chính trị ngày càng tăng của Ấn Độ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thể hiện rõ ràng thông qua Sứ mệnh SAGAR, các biện pháp Hỗ trợ Nhân đạo và Cứu trợ Thảm họa (HADR) trên Biển Đông , đặc biệt là với các biện pháp thích ứng đối với COVID-19. Tàu hải quân Ấn Độ đã được triển khai tới Maldives, Mauritius, Madagascar, Comoros và Seychelles để cung cấp hỗ trợ trong đại dịch Covid-19. Theo yêu cầu của họ, các Đội y tế phản ứng nhanh đã được Ấn Độ triển khai để giúp Maldives, Kuwait, Mauritius và Comoros đối phó với đại dịch. Không thể bỏ qua viễn cảnh chiến lược của Mission SAGAR khi Ấn Độ hướng tới tăng cường mối quan hệ trên biển với các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Là một phần trong việc tiếp cận Đông Nam Á, thông qua Sứ mệnh SAGAR, Tàu Hải quân Ấn Độ INS Kiltan đã chuyển giao 15 tấn vật liệu cứu trợ lũ lụt bao gồm 3.000 bộ dụng cụ cứu trợ lũ lụt cho Ban Chỉ đạo NDPC (Phòng chống và Kiểm soát Thiên tai Quốc gia) của Việt Nam vào tháng 12 năm 2020. Điều này nhắc lại quan điểm của Ấn Độ là một đối tác đáng tin cậy và Hải quân Ấn Độ là đối tác an ninh ưu tiên và là lực lượng phản ứng đầu tiên. Sự hỗ trợ tương tự của HADR đã được mở rộng đến các khu vực bị ảnh hưởng bởi lũ lụt của Campuchia, cho thấy Ấn Độ muốn thể hiện sự hiện diện của mình như một đối tác đặc biệt thân thiết đối với các quốc gia ở Biển Đông như thế nào. Mặc dù Sứ mệnh SAGAR của Hải quân Ấn Độ mô tả bức tranh về một “Ấn Độ định hướng giúp đỡ”, một phân tích chuyên sâu về lộ trình của sứ mệnh cho thấy mục tiêu rộng lớn hơn của Ấn Độ là tiếp cận các đảo nhỏ hơn và các vùng ven biển Ấn Độ Dương, vốn là những đối tác thiết yếu trong Con đường tơ lụa trên biển của Trung Quốc.
Việt Nam là một nhân tố quan trọng trong Chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ. Việt Nam đã ủng hộ những nỗ lực của Ấn Độ nhằm đạt được vai trò lớn hơn trong ASEAN để có thể đối trọng với sự khẳng định ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực. Việt Nam là quốc gia điều phối viên của Ấn Độ trong ASEAN, báo hiệu mối quan hệ mới giữa hai nước. Việt Nam cũng đang vươn lên là đối tác cốt lõi của Ấn Độ tại nhiều diễn đàn tiểu vùng, khu vực và đa phương, bởi ngay sau khi Việt Nam được bầu làm thành viên không thường trực Liên hợp quốc, Việt Nam đã tái khẳng định ủng hộ Ấn Độ ứng cử làm thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an LHQ. Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ấn Độ ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong suốt thời gian thử thách và Ấn Độ là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận chính phủ Việt Nam độc lập. Ấn Độ trao quy chế Tối huệ quốc cho Việt Nam vào năm 1975. Năm 1979, Việt Nam lại phải đối mặt với một đòn giáng do Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ. Năm 1962, Trung Quốc tấn công Ấn Độ và sáp nhập các vùng lãnh thổ của Ấn Độ ở Đông Bắc (Arunachal Pradesh vẫn là khu vực tranh chấp giữa Ấn Độ và Trung Quốc), và do đó mối quan hệ của Ấn Độ với Việt Nam trở nên khác biệt do hai nước cùng phải đối phó với Trung Quốc ở biên giới.
Theo nhận định của Aswani và các tác giả khác (2021, tr. 100), các chiến lược Vành đai con đường (BRI) của Trung Quốc và việc mở rộng ảnh hưởng bá quyền ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương được coi là mối đe dọa đối với an ninh toàn cầu nói chung và Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nói riêng. Do đó, chính sách Việt Nam của Ấn Độ, nằm trong Chính sách Hành động hướng Đông, nhằm mục đích khai thác tiềm năng tiềm ẩn này để chủ yếu hỗ trợ Việt Nam xây dựng nền kinh tế và hợp tác với tư cách là một đồng minh địa chiến lược, nhằm tạo ra đối trọng trước sự bành trướng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Ấn Độ đặt mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một đồng minh ở Đông Nam Á, tương tự như những gì Trung Quốc làm với Pakistan. Ấn Độ đóng vai trò hàng đầu trong IOR, trong khi Việt Nam giữ vị trí địa chính trị quan trọng ở khu vực Thái Bình Dương. Hai đang đứng trước những cơ hội và thách thức tương tự nhau. Cả hai đều nằm trong khu vực đang phát triển mạnh, cần tận dụng cơ hội này, tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển nhanh và bền vững hơn.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Trần Xuân Sơn (2022). Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ: 50 năm gắn kết tình hữu nghị. Tạp chí Cộng sản, 7/2022
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục
Một thập kỷ Chính sách Hành động phía Đông của Ấn Độ
10 năm CIS 03:00 15-10-2024
Brunei và Chính sách Hành động phía Đông của Ấn Độ
10 năm CIS 09:00 20-09-2024
Ấn Độ và vai trò lãnh đạo về nhiên liệu bền vững
10 năm CIS 09:00 19-09-2024
Đảng Nhân dân Ấn Độ - BJP của Ấn Độ: Một giới thiệu ngắn gọn
10 năm CIS 08:00 12-09-2024
Hướng đến mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa Ấn Độ và Malaysia
10 năm CIS 04:00 10-09-2024