Sự phụ thuộc của Ấn Độ vào Nga về năng lượng hạt nhân khiến Mỹ lo ngại
Cuộc hội kiến giữa Modi-Biden nhấn mạnh mục tiêu cắt đứt quan hệ của New Delhi với Moscow của Washington
TOKYO – Trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Mỹ và gặp Tổng thống Joe Biden vào tháng 6/2023, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã đưa ra nhiều thỏa thuận, bao gồm cả việc đồng sản xuất động cơ máy bay chiến đấu của Mỹ và sự tham gia của Ấn Độ vào kế hoạch Artemis do Mỹ lãnh đạo - dự án này nhằm mục đích đưa người lên mặt trăng trong nửa đầu thế kỷ này.
Bên cạnh các thỏa thuận khác nhau, tuyên bố chung của hai nước còn lặng lẽ bao gồm hợp tác hạt nhân giữa hai nước.
Tuyên bố cho biết: “Các nhà lãnh đạo ghi nhận các cuộc đàm phán đang diễn ra giữa Tập đoàn Điện hạt nhân Ấn Độ Limited và Công ty Điện lực Westinghouse về việc xây dựng sáu lò phản ứng hạt nhân ở Ấn Độ”.
Các cuộc đàm phán không có nội dung gì mới. Masato Nabeshima, giám đốc nghiên cứu tại Trung tâm Thông tin Điện lực Nhật Bản, giải thích: “Hai nhà lãnh đạo chỉ đơn giản xác nhận rằng kế hoạch vẫn ở đó".
Các cuộc đàm phán Mỹ-Ấn về xây dựng nhà máy điện hạt nhân tiến triển như thế nào?
Ấn Độ chưa ký Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) hoặc Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT). Tuy nhiên, vào năm 2008 Mỹ đã thừa nhận Ấn Độ là một cường quốc hạt nhân trên thực tế bằng cách ký một thỏa thuận hạt nhân và yêu cầu Nhóm các nhà cung cấp hạt nhân - một tổ chức xuyên quốc gia gồm các nước cung cấp hạt nhân nhằm mục đích kiểm soát việc phổ biến vũ khí hạt nhân bằng cách hạn chế xuất khẩu các mặt hàng liên quan. vật liệu và công nghệ phát triển -- dành cho Ấn Độ sự đối xử đặc thù.
Điều đó cho phép Mỹ xuất khẩu hạt nhân.
Xuất phát từ lợi ích chung giữa Mỹ, quốc gia hướng đến xuất khẩu cơ sở hạ tầng và Ấn Độ, quốc gia thiếu điện, đã đồng ý xây dựng các nhà máy điện hạt nhân lớn với công suất 1 triệu kilowatt.
Nhưng Ấn Độ đã ban hành Đạo luật Trách nhiệm Dân sự đối với Thiệt hại Hạt nhân vào năm 2010, trong đó yêu cầu các nhà sản xuất điện hạng nặng phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại hạt nhân. New Delhi đã rút ra bài học từ thảm họa rò rỉ khí đốt Bhopal năm 1984 xảy ra tại nhà máy thuốc trừ sâu của công ty hóa chất Union Carbide của Mỹ ở Ấn Độ, trong đó ước tính có hơn 16.000 người thiệt mạng.
Trong trường hợp tai nạn hạt nhân, thông thường các công ty điện lực sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ không có lựa chọn nào khác ngoài việc đặt chân lên cả chân ga và phanh do quốc hội ngày càng mất lòng tin vào các công ty nước ngoài. Kể từ đó, kế hoạch nhà máy điện đã bị gác lại trong 13 năm.
Ấn Độ là một trong những quốc gia đầu tiên sử dụng năng lượng hạt nhân. Nước này đã ban hành Đạo luật Năng lượng Nguyên tử vào năm 1948, chỉ một năm sau khi giành được độc lập, và bắt đầu nghiên cứu và phát triển năng lượng hạt nhân. Ấn Độ lần đầu tiên giới thiệu các lò phản ứng nhỏ do General Electric sản xuất và trở thành quốc gia châu Á đầu tiên bắt đầu vận hành các nhà máy điện hạt nhân vào năm 1969.
Ban đầu, Ấn Độ chỉ sử dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình, nhưng các yếu tố địa chính trị phức tạp đã phủ bóng đen. Nước này đã phải chịu thất bại nặng nề trong cuộc tranh chấp biên giới với Trung Quốc vào năm 1962, và Trung Quốc đã thành công trong vụ thử hạt nhân hai năm sau đó. Kết quả là Ấn Độ đã tiến hành một vụ thử hạt nhân vào năm 1974 để đối phó với Trung Quốc.
Khi công nghệ và thiết bị bị cắt đứt vì lệnh trừng phạt, Ấn Độ buộc phải tự mình phát triển công nghệ hạt nhân. Nước này tiến hành vụ thử hạt nhân lần thứ hai vào năm 1998, tuyên bố mình là một cường quốc hạt nhân bất chấp sự phản đối và trừng phạt của quốc tế.
Chính Liên Xô đã chìa bàn tay cho Ấn Độ, quốc gia bị quốc tế cô lập vào thời điểm đó.
Năm 1971, Ấn Độ và Liên Xô đã ký Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác Ấn-Xô, một liên minh quân sự trên thực tế. Bất chấp lệnh trừng phạt của phương Tây, hai nước đã đồng ý xây dựng một nhà máy điện hạt nhân 1 triệu kW vào năm 1988.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã ký thỏa thuận khởi công xây dựng hai lò phản ứng vào năm 2002. Các lò phản ứng lần lượt bắt đầu hoạt động vào năm 2014 và 2017. Ngay cả sau vụ thử hạt nhân năm 1998, Nga đã giúp Ấn Độ bằng cách cung cấp uranium được làm giàu ở mức độ thấp.
Ấn Độ có 23 lò phản ứng đang hoạt động, với tổng sản lượng là 7,48 triệu kW. Hầu hết các lò phản ứng đều do Ấn Độ sản xuất với công suất 200.000 kW.
Ấn Độ chỉ có hai lò phản ứng lớn, đều do Nga sản xuất, tạo ra gần 30% tổng sản lượng. Trong số 10 lò phản ứng đang được xây dựng, 4 lò phản ứng do Nga sản xuất sẽ chiếm một nửa sản lượng 8 triệu kW.
Các nhà máy hạt nhân hiện chỉ chiếm khoảng 2% sản lượng điện của Ấn Độ, nhưng tình trạng thiếu điện đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng khi dân số và nền kinh tế gia tăng.
Ngoài ra, Ấn Độ đã cam kết đạt mức phát thải khí nhà kính bằng không vào năm 2070. Do đó, sự hợp tác của Nga mang lại hy vọng cho Ấn Độ, vì nước này sẽ khó đối phó với tình trạng thiếu điện nếu không xây dựng thêm các nhà máy hạt nhân.
Ấn Độ phải nhận thức được rủi ro an ninh khi phụ thuộc vào một quốc gia. Ấn Độ đã chuyển sang hợp tác với Mỹ vào năm 2008 và với Pháp vào năm 2018, nhưng các kế hoạch đã không thành hiện thực do Đạo luật Trách nhiệm Dân sự đối với Thiệt hại Hạt nhân. Nga, quốc gia mà các công ty nhà nước đóng vai trò chủ đạo, dường như ít quan tâm đến rủi ro bồi thường.
Ấn Độ đã kiềm chế không công khai chỉ trích cuộc chiến của Nga ở Ukraine. Biden, tại hội nghị thượng đỉnh với Modi, đã tuyên bố khởi động hợp tác sản xuất động cơ phản lực, cho thấy ý định của Washington nhằm kéo Ấn Độ ra khỏi Nga - quốc gia mà New Delhi mua 60% vũ khí.
Để đạt được mục đích đó, cũng cần phải cắt đứt sự phụ thuộc năng lượng hạt nhân của Ấn Độ vào Nga, một điểm nghẽn khác. Những nỗ lực này diễn ra như thế nào sẽ là chìa khóa cho triển vọng quan hệ Mỹ-Ấn và địa chính trị ở châu Á.
- Share
- Copy
- Comment( 0 )
Cùng chuyên mục