Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Trung Quốc - Ấn Độ: Các quan hệ kinh tế và sự đối đầu chiến lược (Phần 5)

Trung Quốc - Ấn Độ: Các quan hệ kinh tế và sự đối đầu chiến lược (Phần 5)

Các lý thuyết về sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế và chù nghĩa hiện thực mang tính cơ cấu giải thích thỏa đảng thế nào về mối bất đồng Trung-Ấn giữa các quan hệ kinh tế đang phát triển và sự nghi ngờ mang tính chiến lược đang tiếp tục? Bài báo này nhìn vào phía Ấn Độ và lập luận rằng, chúng ta cần vượt ra ngoài các yếu tố kinh tế và chiến lược, và đưa ra một đường hướng bất ngờ hơn dựa trên sự bàn luận và tư duy của giới tinh hoa trong nước. Bài viết cho rằng một cuộc tranh luận có sắc thái và phức tạp hơn về Trung Quốc đang nổi lên ở Ấn Độ so với điều được thừa nhận bởi sự phụ thuộc lẫn nhau hay chủ nghĩa hiện thực, một cuộc tranh luận được dụng lên bởi cái mà tác giả bài này gọi là các trường phái tư tưởng theo đường hướng chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa toàn cầu.

05:03 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

(Tiếp theo phần 4)

Trung Quốc là mối đe dọa hay cơ hội

Để trở lại với các mô hình lý thuyết, một người đề xướng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế rõ ràng sẽ xem Trung Quốc không chỉ là một cơ hội kinh tế đối với Ấn Độ, mà còn cho rằng, các quan hệ kinh tế này sẽ có các tác dụng phụ có lợi về chính trị. Nhiều nhà lãnh đạo kinh doanh Ấn Độ mà tác giả bài này đã phỏng vấn có vẻ cũng giữ quan điểm này. Họ tin rằng, có một mối quan hệ tích cực giữa sự tương tác kinh tế và quan hệ chính trị. Nhìn chung, niềm tin này còn được nắm giữ bởi cả những người đứng đầu của các doanh nghiệp mà đã có khả năng thất bại trong sự cạnh tranh của Trung Quốc. Một quan điểm mang tính đại diện là “Nếu có một lượng phụ thuộc lẫn nhau về thương mại đáng kể, điều đó sẽ khiến họ ít có khuynh hướng hơn, hay ít khả năng hơn, có xung đột quân sự. Điều này đặc biệt tốt đối với Ấn Độ, hiện là nước yếu hơn”. Không phái tất cả mọi người đều nhìn thấy sự tương quan trực tiếp này, nhưng hầu hết tin rằng, các quan hệ kinh tế giữa Ấn Độ và Trung Quốc sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực ngay cả nếu quan hệ chính trị trở nên xấu đi. Không có chiến tranh, họ đã tin tưởng rằng, quan hệ kinh tế sẽ không bị gián đoạn một cách nghiêm trọng. Không có gì đáng ngạc nhiên, hầu hết phản ánh một cái nhìn định hướng thị trường tự do của chủ nghĩa toàn cầu.

Những người khác, chẳng hạn như người đứng đầu của một ngân hàng lớn cùa Ấn Độ có các văn phòng tại Trung Quốc, đã quả quyết rằng, Trung Quốc và Ấn Độ vô cùng quan trọng đối với nhau và “không thể phớt lờ đối phương”. Ông dám chắc rằng, hai nước bổ sung và cạnh tranh, và trong khi quan hệ của họ có xu hướng trở nên “không thể dự đoán”, đặc biệt là về các láng giềng và biên giới, “họ sẽ không đẩy nó vượt quá một điểm giới hạn”. Một trong những viên chức của công ty công nghệ thông tin hàng đầu của Ấn Độ đã nhắc đến lời phát biểu của Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ, khi thăm Ấn Độ vào năm 2002, rằng Mạch Tích hợp (IC) nên là chữ viết tắt của “India China” (Ấn Độ Trung Quốc).

Các nhà lãnh đạo kinh doạnh Ấn Độ có vẻ ít lo lắng hơn về quan hệ trong tương lai của Ấn Độ với Trung Quốc. Họ đặt một sự tin tưởng lớn vào ý tưởng cho rằng, “đầu óc kinh doanh chi phối tất cả những thứ khác” tại Trung Quốc. Như giám đốc điều hành của một công ty công trình lớn nói: “Tôi thực sự lo lắng về Trung Quốc về mặt chiến lược nhưng Trung Quốc cũng rất có đầu óc thương mại”. Trong khi các nhà lãnh đạo kinh doanh này quan ngại về sức ép chính trị mà Trung Quốc có thế áp dụng lên Ấn Độ (quan hệ với Pakistan là điểm gây sức ép cao nhất được nhận biết), họ tin rằng, các ngành kinh doanh chủ yếu được miễn trừ, họ có xu hướng xem các lĩnh vực chính trị và kinh doanh là khá tách biệt về mặt này. Hơn thế, họ xem thế hệ trẻ hơn của Trung Quốc là ít theo hệ tư tưởng hơn so với những thế hệ đi trước. Yếu tố quan trọng nhất đối với nhiều nhà lãnh đạo kinh doanh của Ấn Độ là sự cần thiết phải có bộ máy lãnh đạo tiếp tục ở cả hai phía mà hiểu rằng, hai nước không thể phát triển nếu không đặt kinh tế lên trước chính trị.

Đáng ngạc nhiên hơn, các nhà lãnh đạo chính trị từ các đảng khác nhau cũng đã ủng hộ các sáng kiến kinh tế đối với Trung Quốc - ngay cả khi ý tưởng về việc làm sâu sắc thêm các quan hệ kinh tế đã đã lần đầu tiên được đưa ra vào đầu những năm 2000. Vào năm 2003, khi quan hệ Trung- Ấn đang được phục hồi sau giai đoạn đi xuống hậu thử nghiệm hạt nhân, không khó để thấy rằng, các thành viên Quốc hội thúc đẩy các mối quan hệ thương mại và kinh tế nhiều hơn với Trung Quốc. Các thành viên Đảng Quốc đại đã khen ngợi những nỗ lực của Đảng Bharatiya Janata (BJP) đối thủ nhằm đẩy mạnh sự can dự về mặt kinh tế với Trung Quốc. Như một thành viên lãnh đạo Đảng Quốc đại đã nói: “Thật may mắn là, với tất cả nhừng nỗ lực của (Chính quyền BJP) các vị, thương mại đã tăng từ 1 tỷ USD lên 5 tỷ USD và tôi cho rằng sẽ rất sớm thôi chúng ta sẽ có thể đạt tới 10 tỷ USD. [...] Chúng ta đang thảo luận các vấn đề chung, như thương mại, văn hóa và các vấn đề khác, và đặc biệt là vấn đề môi trường. Tất cả các dòng sông đều chảy từ Trung Quốc sang Ấn Độ. Nếu có thể có bất cứ sự cộng tác nào giữa Ấn Độ và Trung Quốc để chể ngự những con sông ấy, sẽ rất có lợi cho chúng ta”

Thủ tướng Vajpayee và người đồng cấp Trung Quốc của ông khi đó đã tiếp tục thiết lập một “Nhóm các Cá nhân Kiệt xuất” ở mỗi bên nhằm đưa các tương tác hướng tới một mức độ công khai cao. Về phía Ấn Độ, đáng chú ý là BJP đã chọn ra vị chủ tịch từ Đảng Quốc đại, báo hiệu một đường hướng có chủ tâm giữa các đảng đối với mối quan hệ song phương chủ chốt này.

Xu hướng này có vẻ trở nên mạnh mẽ hơn một cách khá nhanh chóng. Vào năm 2004, dưới thời một chính phủ mới của Đảng Quốc đại mà đã đánh bại BJP, có thể tìm kiếm sự ủng hộ không chỉ từ BJP và Đảng Quốc đại, mà còn từ các đảng khu vực khác như Shiv Sena của những người Hindu theo đường lối dân lộc chủ nghĩa, cho tới Đảng Cộng sản Ấn Độ. Những lời nói của thành viên Quốc hội thuộc đảng Shiv Sena rất đáng được trích dẫn một cách đầy đủ chi tiết: “Bộ trưởng Ngoại giao đã nói rằng, trong khi chúng ta cam kết giải quyết tranh chấp biên giới với Trung Quốc, chúng ta cũng muốn mở rộng các quan hệ kinh tế của chúng ta với Trung Quốc. Tôi chắc chắn rằng, chúng ta không thể bỏ lỡ một cơ hội với Trung Quốc, nước hiện là nền kinh tể tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, nước đang phát triển nhanh đến nỗi có lẽ một ngày nào đó nó sẽ vượt qua nền kinh tế của Mỹ trong thời gian vài năm tới. Vì vậy, giữa Ấn Độ và Trung Quốc, chúng ta chiếm hơn 33% dân số thế giới và nếu họ có một thị trường chung, nó có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới theo cách rất đáng kể”.

Thành viên Đảng Cộng sản đã đồng ý với cảm xúc cho rằng, quan hệ kinh tế được cải thiện có thể ảnh hưởng tới các vấn đề toàn cầu. Theo ông: “Chúng ta đang bắt đầu - đó là một điều rất quan trọng - một chính sách mà theo đó Ấn Độ, Trung Quốc và Nga sẽ đồng hành cùng nhau. Nó tạo ra một điều kiện mà theo đó chúng ta có thể cùng nhau phát đạt về kinh tế; nó có một ảnh hưởng về phương diện gìn giữ hòa bình thế giới”.

Các quan điểm như vậy cho thấy một sự trung thành vớỉ các nguyên tắc của chủ nghĩa toàn cầu -  tự do là nền tảng cho mô hình phụ thuộc lẫn nhau. Trong khi quan điểm kinh doanh có lợi với Trung Quốc đường như vẫn còn kiên định, ngay cả với sự xuất hiện của những thâm hụt thương mại lớn, và những thăng trầm trong quan hệ chính trị, cảc nhà bình luận chính sách vả các chính trị gia đã cho thấy nhiều 'hơn sự nhạy cảm với các tình cảm mang tính dân tộc chủ nghĩa, và hiện thực chủ nghĩa. Chẳng hạn như, từ năm 2008 trờ đi khi những sự thâm hụt trở nên rõ rệt hơn, các cuộc tranh luận trong Quốc hội đã để lộ ra những quan ngại đang tăng lên mà không chỉ giới hạn về kinh tế.

Thuộc về phe đối lập vào lần này, BJP thiên về có thái độ cứng rắn hơn đối với những sự mất cân bằng về kinh tế với Trung Quốc, tương phản với lập trường trước đó của họ. Trong bối cảnh sự phát triển này, điều đáng chú ý cũng là những định hướng chính sách và cam kết kiên định của chính quyền Đảng Quốc đại cầm quyền tiếp tục các quạn hệ không bị đứt quãng với Trung Quốc theo đường lối của chủ nghĩa toàn cầu tự do thị trường. Trong nỗ lực này, một đối tác năng động hơn đối với chính phủ này là nền công nghiệp Ấn Độ - từ các hiệp hội kinh doanh đến các công ty quan trọng là các nhà lãnh đạo thị trường toàn cầu. Đặc biệt là, các hiệp hội công nghiệp đã nổi lên như là các bên tham gia chủ chốt trong nước từ giữa những năm 2000 trong việc giúp đỡ định hình các chiến lược của Chính phủ Ấn Độ. Theo một số quan chức Bộ Thương mại Ấn Độ, họ đang ngày càng quay sang các nhóm như Liên minh các Bộ của Ấn Độ (CII) và Liên đoàn các Phòng Thương mại và Công nghiệp Ẩn Độ (FICCI) để xin tư vấn và thậm chí là hồ sơ chiến lược, do thiếu nghiêm trọng sự am hiểu về Trung Quốc trong các Bộ của Ấn Độ. Quan điểm chi phối của CII và ngay cả FICCI mang tính định hướng trong nước nhiều hơn, là Ấn Độ không thể cô lập Trung Quốc, và thay vào đó cần phải cộng tác với Trung Quốc. Quan điểm của họ là Ấn Độ cần “quản lý” các quan hệ bằng việc cố gắng nâng cao các lợi ích của Trung Quốc tại Ấn Độ. (Xem tiếp phần 6)

Nguồn:

Cùng chuyên mục