Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Ván cờ lớn mới: Cuộc chiến Trung - Ấn, Mỹ tranh giành ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Phần 1)

Ván cờ lớn mới: Cuộc chiến Trung - Ấn, Mỹ tranh giành ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Phần 1)

Một ván cờ lớn nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, bắt nguồn từ sự hội tụ của ba chiến lược: Con đường Tơ lụa trên biển của Trung Quốc, Hành động phía Đông của Ấn Độ và Tái cân bằng Châu Á của Mỹ.

05:17 26-08-2022 Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ

Ván cờ lớn mới: Cuộc chiến Trung - Ấn, Mỹ tranh giành ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương

Rani D. Mullen, Cody Poplin*

Chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình đến Washington đã khiến giới truyền thông xôn xao về vấn đề ăn cắp thông tin mạng và các lâu đài cát mọc lên ở Biển Đông. Song ở nhiều góc độ, những vấn đề này dù sao cũng chỉ là những câu chuyện bên lề của một vấn đề lớn hơn: đó là một Ván cờ lớn nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Ấn Độ - Thái Bình Dương, vốn bắt nguồn từ sự hội tụ của ba chiến lược: Chiến lược Con đường tơ lụa trên Biển của Trung Quốc, Chiến lược Hành động phía Đông của Ấn Độ và Chiến lược Tái cân bằng Châu Á của Mỹ. Ba chiến lược có thể phối hợp với nhau, nhưng điều này là không hề dễ dàng - đặc biệt là đối với Mỹ.

TRÒ CHƠI TUNG HỨNG

Ấn Độ và Trung Quốc có thể đang cạnh tranh giành ảnh hưởng kinh tế và chính trị ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương nhưng có lẽ sẽ tốt hơn nếu hai nước có thể phối hợp chính sách của họ với nhau, bởi với tư cách là các nước láng giềng, thành công kinh tế và chính trị của họ phụ thuộc vào liên kết kinh tế sâu rộng với nhau và với các nước khác trong khu vực. Hiện tại, cả hai đều nhận ra rằng, sẽ chẳng thu được nhiều lợi lộc gì nếu xảy ra các cuộc chiến tranh ủy thác và vì thế đều đang ủng hộ sử dụng ngoại giao sức mạnh mềm.

Có rất nhiều lợi ích to lớn liên quan ở đây. Các động lực về thương mại, năng lượng và địa chính trị đang thúc đẩy tham vọng của cả Trung Quốc và Ấn Độ. Ở giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương là nút thắt thương mại chính của thế giới - eo Malacca. Ngày nay, hơn một nửa lượng container của thế giới và 1/3 thương mại biển của toàn cầu đi qua Ấn Độ Dương và qua điểm thắt cổ chai này vào Biển Đông. Để hiểu hơn về quy mô của của con số trên, khoảng 2/3 nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc, gần 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản và 80% nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc đi qua tuyến đường biển này. Trong khi đó 75% nguồn cung năng lượng của Ấn Độ đi qua Ấn Độ Dương.

Từ lâu Trung Quốc đã mắc kẹt trong cái mà các nhà hoạch định chính sách quốc gia gọi là "tình thế lưỡng nan Malacca" - tình thế mà quyền tiếp cận của Trung Quốc đối với Ấn Độ - Thái Bình Dương rộng lớn bị giới hạn trong một tuyến đường duy nhất và để đi qua tuyến đường này, tàu thuyền của Trung Quốc phải đi qua Biển Đông, nơi đang tồn tại một mớ các yêu sách lãnh thổ chồng lấn của các nước trong khu vực. Vì thế, trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã phải tìm cách đảm bảo quyền tiếp cận của mình đối với các tuyến đường biển trọng yếu, bao gồm việc xây dựng nên một loạt đảo nhân tạo với các đường băng ở Biển Đông và tuyên bố một vùng đặc quyền kinh tế mới bành trướng rộng hơn và vượt xa các tiêu chuẩn cho phép của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. Gần đây Phó Đô đốc Trung Quốc Viên Dự Bách phát biểu khiêu khích rằng, Biển Đông "thuộc về Trung Quốc": dù sao đi nữa thì đây là toàn bộ đường tiếp cận của họ đối với Ấn Độ - Thái Bình Dương rộng lớn.

Rất nhiều bút mực đã viết về Biển Đông, và điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng Biển Đông có thể cũng chỉ là một ví dụ về một ván cờ lớn hơn đang diễn ra.

Cùng với việc tạo ra các tuyến đường đến và vòng quanh Malacca, Trung Quốc đang cung cấp các khoản vay mềm cho Bangladesh, Pakistan, Myanmar và Sri Lanka để xây dựng mọi thứ từ đường cao tốc, đến nhà máy điện, cảng biển. Tất cả những động thái này là một phần của chiến lược Con đường Tơ lụa trên Biển của Trung Quốc, nhằm gắn chặt các quốc gia ở Vịnh Bengal và Ấn Độ Dương vào nền kinh tế Trung Quốc và xây dựng các tuyến đường thương mại từ Trung Quốc thông qua lãnh thổ của các nước này để tiến vào Ấn Độ Dương, cho phép Trung Quốc tránh được nút thắt ở Malacca. Tuy nhiên, cách tiếp cận này của Trung Quốc đã bị phá hoại, một phần bởi các hành động cứng rắn của họ ở Biển Đông, khiến các nước láng giềng nhỏ hơn e sợ và tìm kiếm liên minh với Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ.

Khi Trung Quốc trở nên hung hăng hơn, Ấn Độ đã tập trung chú ý vào nhu cầu tiếp cận các tuyến đường biển trọng yếu và cơ hội đầu tư thương mại đang ngày một tăng nhanh của mình. Trong năm 2011, thương mại biển đóng góp gần 41% tổng GDP của Ấn Độ; con số đã tăng lên 45% năm 2015. Ấn Độ ngày nay nhập khẩu khoảng 3/4 lượng dầu của mình qua Ấn Độ Dương. Ấn Độ e ngại rằng, Trung Quốc, dựa trên mối quan hệ đồng minh với Pakistan, sẽ bao vây Ấn Độ trên bộ và trên biển. Đối với các chiến lược gia Ấn Độ, viễn cảnh Trung Quốc sử dụng năng lực biển tăng cường của mình để thiết lập một vùng cấm hải quân trải dài từ Biển Đông sang Vịnh Ba Tư không hẳn là quá xa vời.

Để ngăn chặn sự xâm lấn này, Ấn Độ, từng là nước nhận viện trợ nước ngoài lớn nhất cho đến thập kỷ 1990, đã bắt đầu chi tiền viện trợ ra nước ngoài. Ngày nay Ấn Độ đã chi hơn 12 tỷ USD vào các khoản tín dụng mở và có hàng chục dự án phát triển lớn ở nước ngoài. Dù viện trợ của Ấn Độ chỉ bằng một phần nhỏ so với viện trợ của Trung Quốc ở khu vực, Ấn Độ hy vọng sử dụng nguồn tài chính, tập trung thương mại, ngoại giao quân sự và các mối liên kết văn hóa của mình - hay còn gọi là chính sách Hành động phía Đông - để duy trì và mở rộng lợi thế của mình đối với các quốc gia ở rìa Ấn Độ Dương nhằm đẩy lùi sự hiện diện của Trung Quốc ở vùng biển này.

Đây, nói ngắn gọn, chính là một Ván cờ lớn mới.  

XÂY DỰNG CƠ SỞ Ở BANGLADESH

Cạnh tranh ở Ấn Độ Dương bắt đầu từ Bangladesh, một đất nước hiện nay là nơi nhận viện trợ lớn thứ hai của Trung Quốc ở khu vực. Trong vòng một thập kỷ qua, 2/3 viện trợ của Trung Quốc tập trung vào lĩnh vực giao thông vận tải bởi Trung Quốc tin rằng, các liên kết cảng và đường sắt từ Trung Quốc đến Bangladesh có thể trở thành một van giảm áp cho eo Malacca. Trung Quốc đã bỏ rất nhiều vốn để nâng cấp hạ tầng cảng biển của Bangladesh: Bắc Kinh là nhà tài trợ chính cho dự án Cảng Chittagong và đã đồng ý thiết lập một cảng nước sâu ở Sonadia trước khi các kế hoạch bị dừng lại do Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ cùng nêu lên quan ngại. Hiện nay Bắc Kinh đang nhắm vào một dự án cảng nước sâu khác ở Paira.

Bangladesh cũng là một trong những nước nhận viện trợ nước ngoài lớn nhất của Ấn Độ, và giống như Trung Quốc, New Delhi tập trung chủ yếu tiền viện trợ vào lĩnh vực giao thông vận tải, vốn được xem là trọng tâm của chính sách Hành động hướng Đông. Ấn Độ đã đồng ý cung cấp 800 triệu USD tiền viện trợ cho các lĩnh vực vận tải đường sông, đường sắt và đường bộ và đang kiến nghị tăng thêm 1 tỷ USD nữa. Ấn Độ cũng nộp hồ sơ dự thầu để xây dựng cảng biển nước sâu ở Paira.

Đồng thời, Ấn Độ còn tích cực phối hợp với Bangladesh để giải quyết tranh chấp biên giới ở Dhaka. Mùa hè qua, hai nước cuối cùng đã đi đến thỏa thuận về các vùng đất bao quanh bị tranh chấp - hoán đổi 160 vùng đất nhỏ bị bao quanh giữa biên giới Ấn Độ - Bangladesh, những vùng đất thuộc về một nước nhưng lại nằm ở nước kia - và nhờ đó giải tỏa được một rào cản chính trị ngăn cản sự hợp tác chính trị giữa hai bên trong vòng 70 năm. Với cách tiếp cận hoàn toàn khác biệt so với Trung Quốc ở Biển Đông, chính quyền Narendra Modi đã chấp nhận một phán quyết quốc tế đối với việc phân định lãnh hải giữa Ấn Độ và Bangladesh ở Vịnh Bengal. Ấn Độ hy vọng rằng một cách tiếp cận "láng giềng thân thiện" hơn, chú tâm đến việc giải tỏa các mâu thuẫn cục bộ để tăng cường hợp tác, sẽ góp phần đẩy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc ở các nước láng giềng quanh Ấn Độ, đồng thời đẩy mạnh thương mại và kết nối ở khu vực Nam Á.

TÌNH TRẠNG LỘN XỘN Ở MYANMAR

Trung Quốc đã đầu tư rất lớn vào láng giềng kế cận của Bangladesh - Myanmar. Bắc Kinh đã duy trì quan hệ thân thiện với chính quyền quân sự ở Naypyidaw trong suốt nhiều thập kỷ bị cô lập của chính quyền này để vun đắp một quan hệ đồng minh về thương mại và tiếp cận nguồn nguyên liệu thô của nước này. Từ năm 1988 đến 2013, Trung Quốc đã xây dựng các cảng biển, đập, đường ống dẫn dầu và khí trên khắp đất nước, chiếm đến 42% lượng đầu tư nước ngoài ở Myanmar. Cảng Kyaukphyu trở thành nền tảng trong chiến lược của Bắc Kinh ở đất nước này bởi nó cung cấp lối tiếp cận quý báu từ đất liền vào Ấn Độ Dương cho Trung Quốc. Năm 2013, hai quốc gia khánh thành một đường ống dẫn khí từ Kyaukphyu vào Trung Quốc, dự kiến sẽ bắt đầu vận chuyển dầu thô từ cuối năm nay.

Quan hệ của Trung Quốc với giới lãnh đạo quân sự  đã gây ra phản kháng ở Myanmar. Bạo lực và các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở phía bắc quốc gia này đã khiến các dự án dầu khí bị trì hoãn và Ấn Độ đã tận dụng cơ hội này để tái củng cố dự án giao thông của mình ở Kaladan, nối thành phố Kolkata của Ấn Độ với cảng Sittwe bằng đường biển, và kết nối Myanmar ngược lại với bang Mizoram của Ấn Độ. Chiều kết nối ngược lại khá quan trọng vì Cảng Sittwe là một phần quan trọng trong kế hoạch lâu dài của Ấn Độ nhằm kết nối vùng Đông Ấn với Myanmar, và rộng ra là với toàn bộ phần còn lại của khu vực thông qua hệ thống đường biển, đường sông và đường cao tốc.  

Các bước đi của Ấn Độ đã vượt ra ngoài phạm vi các hợp tác về phát triển. Dựa trên một thỏa thuận hợp tác về an ninh và biên giới tháng 5/2014, vào tháng 6/2015, Lực lượng Đặc biệt của Ấn Độ đã phát động một cuộc tấn công vào một doanh trại quân khởi nghĩa ở Myanmar. Động thái đã giúp giảm bớt áp lực cho các lực lượng của Naypyidaw, vốn đang bị căng mỏng do phải chiến đấu chống lại các tay súng chống chính quyền ở ba khu vực khác nhau trong đất nước. Trước đó vào năm 2013, Ấn Độ đã đồng ý đóng bốn tàu tuần tra biển cho hải quân Myanmar và huấn luyện các quan chức quân sự cho nước này. Đáp lại, Myanmar, vốn từ lâu là một nước nằm dưới sự bảo trợ của Bắc Kinh, đã bắt đầu xoay trục khỏi Trung Quốc. Cú sốc lớn đầu tiên đối với quan hệ song phương là việc Myanmar cho dừng dự án xây dựng Đập Myitsone do Trung Quốc tài trợ trên sông Irrawaddy vào năm 2011; sau khi chính quyền quân sự ở Myanmar tan rã vào năm 2010, chính phủ mới đã phải nhường bước trước sức ép của dư luận đối với dự án đập. Cú sốc thứ hai là việc Trung Quốc cho phép tập trận bắn đạn thật dọc biên giới Myanmar vào tháng 6/2015. Trong thất bại chiến lược này của Trung Quốc, Ấn Độ là nước thắng lớn - một mẫu hình dường như đang được lặp lại ở nhiều quốc gia Đông Nam Á khác.

ĐỘC TẤU Ở PAKISTAN

Tuy nhiên có một sân khấu mà Trung Quốc rõ ràng đang giành phần thắng - đó là Pakistan. Không một động thái nào của Trung Quốc khiến New Delhi lo lắng hơn quan hệ đồng minh đang nở rộ của Bắc Kinh với Islamabad. Trung Quốc đã tài trợ cho dự án cảng Gwadar của Pakistan, thông qua đó Bắc Kinh định vận chuyển dầu và khí từ Biển Ả Rập vào tỉnh Tân Cương bất kham của nước này. Dự án cảng này trị giá 1,16 tỷ USD nhưng Trung Quốc đã khai thác đồng tiền của mình hiệu quả bằng việc ký được một hợp đồng thuê quản lý trong vòng 40 năm. Và đây mới chỉ là một giọt nước bỏ bể so với khoản đầu tư 46 tỷ USD gần đây để xây dựng hành lang kinh tế 2.000 dặm nối liền Gwadar qua khu vực tranh chấp Kashmir vào Trung Quốc. Hiện nay, can dự hải quân của Trung Quốc với Pakistan cũng đã tăng cường đáng kể, đến mức hải quân Trung Quốc đã cập cảng tại Karachi. Theo ghi nhận của một số bài báo, thậm chí Trung Quốc còn đang có kế hoạch cung cấp các tàu khu trục và các loại tàu chiến đấu khác cho Pakistan trong những năm tới. Tất cả những bước đi này tạo ra cho Trung Quốc năng lực triển khai sức mạnh cứng dọc các nước ven biển Ả Rập, vốn là vùng tập trung với mật độ cao nhất thế giới các mỏ dầu và khí tự nhiên.

 

Hình 1: Viện trợ chiến lược của Ấn Độ và Trung Quốc cho các nước rìa Ấn Độ Dương

*Rani D. Mullen là Phó Giáo sư Đại học William & Mary và Giám đốc Chương trình Nghiên cứu hợp tác phát triển Ấn Độ tại Trung tâm Nghiên cứu chính sách, New Delhi, Ấn Độ. Cody Poplin là Trợ lý Nghiên cứu tại Viện Brooking tại Washington D.C. và là cộng tác viên biên tập của trang Lawfare. 
Nguồn: 
Foreign Affairs. (
http://nghiencuubiendong.vn/)

 (Xem tiếp phần 2)

Nguồn:

Cùng chuyên mục